CỔ
TÍCH ĐỜI THƯỜNG
Trong
“Kinh Cầu Đức Bà”, một
trong các tôn danh mà Giáo hội sử
dụng để tôn vinh Đức Mẹ là
“Nữ Vương Các Gia Đình”.
Đức Mẹ đã từng chăm lo và
quán xuyến Thánh Gia, luôn hết mình
vì gia đình, ngay cả trong những lúc
khó khăn nhất.![](%5B1-1%5D%20C%E1%BB%94%20T%C3%8DCH%20%C4%90%E1%BB%9CI%20TH%C6%AF%E1%BB%9CNG_html_m39c31e30.jpg)
Ngày
đầu năm dương lịch, Giáo hội
mừng kính tôn danh Thánh Mẫu Thiên
Chúa, và Giáo hội cũng dành
ngày này để cầu xin ơn hòa
bình cho toàn thế giới. Người Mẹ
luôn kỳ diệu, vì không ai có
thể hiểu hết Tình Mẫu Tử. Có
một sự trùng hợp kỳ lạ: Hầu
như trong các ngôn ngữ, từ ngữ
được dùng để gọi mẹ
luôn bắt đầu bằng mẫu tự M –
Mẹ (Má, Mế), Māter, Mère, Mother
(Mom), Mutter, Mãe (Mamã), Madre, Màtre,...
Người
Mẹ là sự khởi đầu cho cuộc
sống, tình yêu và hạnh phúc;
Người Cha là sự khởi đầu cho
ý chí, niềm tin và sức mạnh.
Người Mẹ là “nội tướng”
tạo sự êm ấm trong gia đình, thế
nên người Việt có câu: “Đàn
ông xây nhà, đàn bà xây
tổ ấm”.
Còn người Anh có câu: “Người
ta có thể mua tất cả, trừ cha mẹ”.
Cha hoặc mẹ đều có vị trí
và vị thế nhất định, nhưng
mẹ luôn dễ gần gũi hơn – vì
dịu dàng là bản chất của nữ
giới. Mẹ là tất cả của cuộc
đời con cái, mẹ như gà mẹ
xòe cánh che chở con khỏi bị diều
hâu làm hại: “Nơi
ẩn náu yên ổn nhất là lòng
mẹ”
(Florian). Mẹ được ví von bằng
những gì giản dị, gần gũi, thân
thiết và đáng yêu nhất: Vầng
trăng, khúc ca dao, cổ tích, quê
hương, lọn mía, nải chuối, buồng
cau, tiếng dế,... Thật vậy, ca dao Việt
Nam đã so sánh:
Mẹ
già như chuối Ba Hương
Như
xôi Nếp Một, như Đường Mía
Lau
Ba
thứ đó là gì? Chuối Ba Hương
là chuối Bà Hương. Sách Vân
Đài Loại Ngữ nói là “chuối
ba tiêu”, ở xứ Giao Châu có
nhiều loại chuối, trong đó có
“chuối lùn” (bà lùn, dân
gian nói trại thành “già lùn”).
Từ đó nhân gian suy nghĩ thêm
chuối Bà Lùn cùng “ruột thịt”
với chuối Ba Hương và tồn tại
từ buổi khê động hái lượm
xứ Giao Châu. Xôi nếp một còn
gọi là xôi nếp mật, người
ta có món xôi mật; mía lau là
một loại mía ngọt lịm, dùng để
làm đường. Nói chung, đó là
những thứ ngon ngọt nhất và đậm
đà “chất” quê hương –
vì Mẹ là Quê Hương. Về công
đức, ca dao Việt Nam nói:
Thương
thay chín chữ cù lao (1)
Tam
niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình
Chuyện
cổ tích về mẹ là chuyện cổ
tích đời thường, nhưng cứ
nghe mãi mà không chán, và cũng
không sao hiểu hết. Nói đến tình
mẹ thì phải nói tới trách
nhiệm của người con. Những người
trung niên trở lên chắc hẳn còn
nhớ những câu chuyện về “Nhị
Thập Tứ Hiếu” (2) – gương
hiếu thảo của 24 người con, do Quách
Cư Nghiệp kể lại. Có điều
“lạ” là trong 24 hiếu tử đó,
đa số lại là nam giới (nói vậy
không có ý “nói xấu” nữ
giới đâu). Ước gì trong cuộc
đời thường cũng có thật nhiều
những tấm gương hiếu thảo như
vậy!
Thế
nhưng, trần gian vẫn có những nghịch
tử bất nhân với chính mẹ mình.
Một trong các nghịch tử đó là
Hoàng Khắc Thắng (25 tuổi), ngụ xóm
25, xã Nghi Vạn, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An. Thắng đã nhẫn tâm
đánh chết mẹ ruột là bà
Nguyễn Thị Đấu (68 tuổi).
Tại
sao? Nguyên nhân là tối 2-12-2013, Thắng
đi làm về nhưng chưa thấy mẹ
nấu cơm nên gọi hỏi mẹ. Bà
Đấu bị ốm nên không dậy nấu
cơm được. Nghe vậy, Thắng vừa
chửi bới vừa xông vào dùng tay
và dép đánh tới tấp vào
người bà. Hàng xóm nghe tiếng
kêu chạy sang, đập cửa nhưng Thắng
không mở. Khi bị dọa báo công
an, Thắng mới dừng tay. Thấy bà Đấu
bị thương, hàng xóm đã gọi
điện báo công an và đưa bà
đi cấp cứu tại trạm y tế xã
Nghi Phương. Hàng xóm còn cho biết
rằng Thắng thường xuyên đánh
đập mẹ, nhiều hôm bà Đấu
phải trốn sang nhà hàng xóm ngủ
nhờ. Thật đau lòng mẹ!
Sau
một đêm cấp cứu, tình trạng
bà Đấu xấu hơn nên được
chuyển đến Bệnh viện Đa khoa huyện
Nghi Lộc. Các bác sĩ phát hiện
bà bị nhiều vết thương sưng
tím bầm ở gáy, đầu, mặt và
hai cánh tay. Sau hai ngày điều trị,
bà Đấu đã tử vong vào sáng
4-12-2013. Nghịch tử Thắng có bị xử
tử cũng không thể đền bù tội
lỗi. Khốn nạn thay cho những nghịch tử
như Thắng! Và thi thoảng chúng ta vẫn
thấy có một số nghịch tử tương
tự như vậy.
Mẹ
luôn kỳ diệu, bí ẩn, không ai
hiểu hết tình mẹ dành cho con, dù
đứa con tật nguyền hoặc xấu xí.
Trong thi phẩm “Con Cò”, thi sĩ Chế
Lan Viên (1920-1989) nói về tình mẫu
tử: “Con
dù lớn vẫn là con của mẹ, đi
hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Thật cảm động biết bao! Cố NS Y
Vân cũng trút niềm cảm phục tình
mẹ qua ca khúc nổi tiếng “Lòng
Mẹ” mà hầu như ai cũng đã
hơn một lần ngâm nga: “Lòng
mẹ bao la như biển Thái Bình dạt
dào, tình mẹ tha thiết như dòng
suối hiền ngọt ngào...”.
Còn ca dao Việt Nam so sánh tình cha mẹ,
đồng thời khuyên răn những người
con:
Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một
lòng thờ mẹ, kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo
con
Nói
về người mẹ trần gian, ngạn ngữ
Trung Hoa xác định: “Phúc
đức tại mẫu”.
Quả đúng là vậy, như Đại
đế Napoléon I nhận xét: “Tương
lai của con là công trình của mẹ”.
Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng
trái tim người mẹ vẫn là kỳ
quan tuyệt với nhất.
Nói
về người mẹ tâm linh, Thánh Denis
(giám mục tử đạo) nói: “Đức
Mẹ là nơi nương náu của
những người đã hòng hư
mất, là hy vọng của những người
không còn hy vọng”.
Thuở
xưa, Đức Chúa đã phán với
ông Môsê: “Hãy
nói với A-ha-ron và các con nó
rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en,
anh em hãy nói thế này: Nguyện Đức
Chúa chúc lành và gìn giữ
anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét
mặt nhìn đến anh em và dủ lòng
thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé
mắt nhìn và ban bình an cho anh em! Chúc
như thế là đặt con cái Ít-ra-en
dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và
Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng”
(Ds 6:23-27).
Nếu
chúng ta là hiếu tử thì chúng
ta mới thực sự xứng đáng dâng
lời cầu nguyện này: “Nguyện
Chúa Trời dủ thương và chúc
phúc, xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết
đường lối Chúa, và muôn
nước biết ơn cứu độ của
Ngài”
(Tv 67:2-3). Và nếu vậy, Thiên Chúa
sẽ vui mừng chấp nhận!
Trong
“luật tu” của mọi người, tu
thân là điều tiên quyết: Tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Có tu tâm sửa tính thì mới đủ
đức độ để mà “tề
gia”, rồi mới có thể “trị
quốc” và “bình thiên hạ”.
Những người có quyền mà không
có đức thì chỉ “hành”
người khác và làm rối loạn
xã hội. Rất nguy hiểm! Tác giả
Thánh Vịnh hy vọng và cầu chúc:
“Ước
gì muôn nước reo hò mừng rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu
theo lẽ công minh, Người cai trị muôn
nước theo đường chính trực và
lãnh đạo muôn dân trên mặt
đất này. Ước gì chư dân
cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ
Ngài”
(Tv 67:5-6).
Trong
thời khắc giao thừa, lúc tống cựu
và nghinh tân, chúng ta hãy đồng
tâm nhất trí cầu xin: “Nguyện
Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước
chi toàn cõi đất kính sợ
Người!”
(Tv 67:8). Được như vậy thì mới
là được hưởng nền hòa
bình đích thực và vĩnh cửu.
Đấng
Cứu Thế đã đến thế gian lần
thứ nhất, Ngài sắp trở lại lần
thứ nhì với tư cách Vua Công Lý.
Thánh Phaolô cho biết: “Khi
thời gian tới hồi viên mãn, Thiên
Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm
con một người đàn bà, và
sống dưới Lề Luật, để chuộc
những ai sống dưới Lề Luật, hầu
chúng ta nhận được ơn làm
nghĩa tử”
(Gl 4:5). Đó chính là đại phúc
chúng ta được tận hưởng, nhờ
lòng thương xót của Thiên Chúa.
Đại
phúc đó không hề mơ hồ,
không hề viễn vông, mà rất thật:
“Để
chứng thực anh em là con cái, Thiên
Chúa đã sai Thần Khí của Con
mình đến ngự trong lòng anh em mà
kêu lên: ‘Áp-ba, Cha ơi!’. Vậy
anh em không còn phải là nô lệ
nữa, nhưng là con, mà đã là
con thì cũng là người thừa kế,
nhờ Thiên Chúa”
(Gl 4:6-7). Chỉ là những tội nhân khốn
nạn, giống như các tử tội, thế
mà chúng ta lại được trắng
án; và không chỉ vậy, chúng ta
còn được nhận làm con và
được quyền thừa kế gia sản.
Sự thật mà hầu như không thể
tin được, chúng ta tưởng như
giữa giác mơ (x. Tv 126:1), nhưng đó
lại là sự thật minh nhiên!
Chúng
ta vừa hân hoan kính mừng Con Thiên
Chúa giáng sinh, Giáo hội tiếp tục
kính mừng Mẹ Thiên Chúa. Một
“nối kết” rất lô-gích.
Thánh sử Luca kể: “Các
mục đồng hối hả ra đi. Đến
nơi, họ gặp Cô Maria, Chú Giuse, cùng
với Hài Nhi đặt nằm trong máng
cỏ”
(Lc 2:16). Lời kể ngắn gọn nhưng vẫn
có thể phác họa “chân dung”
một gia đình, trong đó có Người
Mẹ, với Thánh Gia thì có Mẹ
Thiên Chúa.
Thấy
thế, các mục đồng liền kể
lại điều đã được nói
với họ về Hài Nhi này. Khi nghe các
người chăn chiên thuật chuyện, ai
cũng ngạc nhiên. Không “tròn mắt”
sao được khi nghe những điều “khác
thường” như vậy? Thánh Luca mô
tả: “Còn
Cô Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ
niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong
lòng”
(Lc 2:19). Đó là bản chất phụ
nữ, “phong cách” của người
mẹ là thế: Chịu đựng, âm
thầm, lặng lẽ, khiêm nhường, dịu
dàng,… Riêng các người chăn
chiên, “họ ra về, vừa đi vừa
tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi
điều họ đã được mắt
thấy tai nghe, đúng như đã được
nói với họ” (Lc 2:20).
Kinh
Thánh nói rõ: “Khi
Hài Nhi được đủ tám ngày,
nghĩa là đến lúc phải làm
lễ cắt bì, người ta đặt tên
cho Hài Nhi là Giêsu; đó là
tên mà sứ thần đã đặt
cho Người trước khi Người được
thụ thai trong lòng mẹ”
(Lc 2:21). Câu này nói về Người
Con nhưng vẫn mặc nhiên nói đến
Người Mẹ, nói đến Tình Mẫu
Tử, nói đến Lòng Mẹ của
Đức Maria – người được
vinh dự làm Mẹ Thiên Chúa.
Chuyện
cổ tích đời thường nhưng
không tầm thường, mà rất khác
thường. Đức Mẹ là Đấng
đặc trưng cho tất cả những chuyện
cổ tích đời thường mọi thời
đại, mọi nơi và mọi lúc, ở
ngay trong gia đình bình thường của
mỗi người chúng ta.
Lạy
Thiên Chúa, lại một năm nữa đi
qua, và một năm mới lại bắt đầu,
xin giúp chúng con biết sống đúng
tinh thần yêu thương để kiến
tạo hòa bình ở những nơi chúng
con hiện diện, xin cho bất kỳ ai gặp
chúng con cũng gặp được Ngài
nơi chúng con, và họ khả dĩ nhận
biết chúng con là môn đệ của
Ngài.
Lạy
Thánh Mẫu Thiên Chúa, xin nguyện giúp
cầu thay và hướng dẫn chúng con
trên mọi nẻo đường trần gian
đầy cạm bẫy này. Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
CHÚ
THÍCH:
(1)
Chín Đức Cù Lao: 1. SINH (sinh nở), 2.
CÚC (nâng niu, nâng đỡ), 3. PHỦ
(vỗ về, âu yếm), 4. DƯỠNG (nuôi
nấng, cho ăn, bú mớm), 5. TRƯỞNG
(nuôi cho khôn lớn), 6. DỤC (dạy dỗ,
uốn nắn), 7. SÚC (săn sóc, chăm
chút, trông nom), 8. PHỤC (chiều chuộng),
9. PHÚC (che chở, bảo vệ).
(2)
Nhị Thập Tứ Hiếu – 24 Hiếu Tử:
1. NGU THUẤN (vua Thuấn) – hiếu cảm
động trời; 2. LƯU HẰNG (Hán Văn
Đế) – người con nếm thuốc; 3.
TĂNG SÂM – mẹ cắn ngón tay, tim
con đau xót; 4. MẪN TỔN – nghe lời
mẹ với quần áo đơn giản; 5.
TRỌNG DO – vác gạo nuôi cha mẹ;
6. ĐỔNG VĨNH – bán thân chôn
cha; 7. ĐÀM TỬ – cho cha mẹ bú
sữa hươu; 8. GIANG CÁCH – làm
thuê nuôi mẹ; 9. LỤC TÍCH – giấu
quýt cho mẹ; 10. ĐƯỜNG PHU NHÂN –
cho mẹ chồng bú sữa; 11. NGÔ MÃNH
– cho muỗi hút máu; 12. VƯƠNG
TƯỜNG – nằm trên băng chờ cá
chép; 13.QUÁCH CỰ – chôn con cho mẹ;
14. DƯƠNG HƯƠNG – giết hổ cứu
cha; 15. CHÂU THỌ XƯƠNG – bỏ chức
quan đi tìm mẹ; 16. DỮU KIỀM LÂU
– nếm phân lo âu; 17. LÃO LAI TỬ
– đùa giỡn làm vui cha mẹ; 18.
THÁI THUẬN – nhặt dâu cho mẹ;
19. HOÀNG HƯƠNG – quạt gối ấm
chăn; 20. KHƯƠNG THI – suối chảy, cá
nhảy; 21. VƯƠNG BẦU – nghe sấm,
khóc mộ; 22. ĐINH LAN – khắc gỗ
thờ cha mẹ; 23. MẠNH TÔNG – khóc
đến khi măng mọc; 24. HOÀNG ĐÌNH
KIÊN – rửa sạch cái bô vệ
sinh của mẹ.
|