ÁNH
SÁNG ĐỨC KITÔ
(Giáng
Sinh – Lễ Ngày)
VINH
DỰ ĐỨC CHÚA TRÊN TRỜI MÃI
MÃI![](%5BNg%C3%A0y%20GS%5D%20%C3%81NH%20S%C3%81NG%20%C4%90%E1%BB%A8C%20KIT%C3%94_html_m132e948a.jpg)
THÁI
HÒA LOÀI NGƯỜI DƯỚI ĐẤT
NƠI NƠI
Đó
là lời hát của Ca đoàn Thiên
thần vang vọng từ chốn cửu trùng
trong Đêm Hồng Ân (Lc 2:14), khi Vương
Nhi Giêsu mặc xác phàm và hạ
sinh nơi hèn hạ nhất. Một Vua Nghèo
nhưng lại đầy quyền lực và
giàu có nhất. Ngài muốn dạy
chúng ta bài học sống khó nghèo,
sống khiêm nhường, sống yêu
thương, thực sự quan tâm chăm sóc
và chia sẻ với những người nghèo
hèn nhất trong xã hội, bằng hành
động cụ thể chứ không bằng
lời nói suông. Chính Ngài tự
nguyện trở nên Vị Vua Nghèo Nhất
– Đệ Nhất Hàn Vương.
Bài
Thánh Ca của Ca Đoàn Thiên Thần
chứa một triết lý thâm thúy. Vế
thứ nhất “Vinh Danh Thiên Chúa trên
trời” là điều tất nhiên,
nhưng vế thứ nhì là điều
chúng ta cần suy nghĩ: “Bình
an dưới thế cho người thiện tâm”.
Nếu chúng ta chưa được bình
an vì chúng ta chưa thiện tâm. Chỉ
những ai thiện tâm thì mới được
Chúa thương, tức là được
bình an tâm hồn. Bình an tâm hồn
và bình an thể lý khác nhau. Có
bình an thể lý chưa chắc có
bình an tâm hồn. Có thể cuộc
sống của chúng ta gặp khó khăn,
bị bách hại, bị tù đày,
bị phiền phức nhiều thứ,… nhưng
vẫn có điều chắc chắn là
tâm hồn luôn được bình an.
Đó mới là bình an đích
thực cần thiết.
Lịch
sử đã có bằng chứng minh nhiên:
Các vị tử đạo không hề bình
an về thể lý vì họ bị voi giày,
ngựa xéo, lăng trì, xử trảm,…
và chết thê thảm, nhưng tâm hồn
họ vẫn luôn bình an, bởi vì họ
làm đúng lương tâm, đúng
giáo huấn của Thiên Chúa.
SÁNG
NGỜI NIỀM TIN
Cứ
mỗi lần kỷ niệm Con Thiên Chúa
giáng sinh, người ta lại thấy vang lên
ca khúc “Mùa Sao Sáng” của NS
Nguyễn Văn Đông, với lời thoại
mở đầu là lời thơ của Thi sĩ
Kiên Giang: “Lạy
Chúa, con là người ngoại đạo,
nhưng tin có Chúa ngự trên cao”.
Mặc
dù không là Thánh Ca, nhưng ca khúc
“Mùa Sao Sáng”vẫn nghe như thánh
ca, giai điệu vừa đẹp vừa nhẹ
nhàng và ca từ cũng đẹp: “Một
mùa sao sáng, đêm Noël Chúa sinh
ra đời. Người hẹn cùng tôi
ngày về khi đất nước yên
vui. Quỳ lạy Mẹ Maria, lòng Mẹ từ
bi bao la, tấu khúc nhạc lên xin ơn
trên ban cho nhà Nam. Từ mùa Đông
trước qua mùa Đông tiếp theo sau
này, người bạn còn đi mà
niềm tin vẫn thắm trên môi… Lớp
lớp đoàn chiên quyết sáng danh
Chúa trên trời cao… Lạy Mẹ đồng
trinh ban ơn, người Việt cùng thương
nhau hơn, đất nước này đây
sáng đức tin Chúa trên trời
cao”.
Trong niềm vui mừng Chúa giáng sinh, tác
giả không quên cầu xin Đức Mẹ
ban ơn, nếu không là tín hữu
Công giáo thì khó có thể có
tâm tình với Đức Mẹ như vậy.
Không
biết ông có niềm tin Kitô giáo
hay không, nhưng các ca từ ông viết
nghe đầy “chất” Công giáo.
Phải chăng ông là người ngoại
đạo nhưng luôn hướng về Chúa,
luôn tin rằng “lớp lớp đoàn
chiên quyết sáng danh Chúa trên trời
cao” và “đất nước này
đây sáng đức tin Chúa trên
trời cao”? Ca từ nói về nỗi day
dứt trong thời chiến nhưng ngày nay vẫn
thấy phù hợp, bởi vì tuy chiến
tranh bom đạn không còn nhưng có
dạng chiến tranh khác vẫn xảy ra hàng
ngày đâu đó trên quê hương
Việt Nam nhỏ bé này.
Tuy
nhiên, Niềm Tin vẫn sáng ngời soi
đường dẫn lối, và đó
cũng là một cách rao truyền Ơn
Cứu Độ, thật là “đẹp
thay trên đồi núi, bước chân
người loan báo tin mừng, công bố
bình an, người loan tin hạnh phúc,
công bố ơn cứu độ và nói
với Sion rằng Thiên Chúa ngươi là
Vua hiển trị” (Is 52:7). Chúng ta luôn
sống “đời vọng” vì vững
lòng tín thác vào Thiên Chúa:
“Trước
mặt muôn dân, Đức Chúa đã
vung cánh tay thần thánh của Người:
ơn cứu độ của Thiên Chúa
chúng ta, người bốn bể rồi ra
nhìn thấy” (Is
52:10).
Trong
niềm tín thác tuyệt đối, Thánh
Vịnh gia đã cất cao lời tuyên
xưng: “Hát
lên mừng Chúa một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao
kỳ công. Người chiến thắng nhờ
bàn tay hùng mạnh, nhờ cánh tay chí
thánh của Người. Chúa đã
biểu dương ơn Người cứu độ,
mặc khải đức công chính của
Người trước mặt chư dân; Người
đã nhớ lại ân tình và tín
nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en. Toàn
cõi đất này đã xem thấy ơn
cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta. Tung hô Chúa, hỡi toàn thể địa
cầu, mừng vui lên, reo hò đàn
hát. Đàn lên mừng Chúa khúc
hạc cầm dìu dặt, nương khúc
hạc cầm réo rắt giọng ca. Kèn
thổi vang xen tiếng tù và, tung hô
mừng Chúa, vị Quân Vương!”
(Tv 98:1-6).
Thật
hạnh phúc khi chúng ta được kế
thừa đức tin Công giáo từ bao đời
nay. Và quả thật, ánh sáng đức
tin đã, đang và sẽ chiếu sáng
dẫn đường cho chúng ta suốt cuộc
lữ hành trần thế này. Chính
ánh sáng đó cũng đã soi
đường cho các mục đồng và
các đạo sĩ năm xưa. Ánh sáng
Đức tin liên quan Lòng Thương Xót.
SÁNG
NGỜI LÒNG THƯƠNG XÓT
Mùa
Giáng Sinh là Mùa Sao Sáng, Mùa
Bình An, Mùa Yêu Thương, Mùa
Hồng Ân Cứu Độ, đồng thời
cũng là Lễ Hội không chỉ riêng
ai – cả Kitô giáo và không Kitô
giáo. Nhịp điệu Giáng sinh có
gì đó rất độc đáo,
khiến lòng người vừa lắng đọng
vừa chộn rộn. Nỗi mong chờ càng
rút ngắn, lòng người càng nôn
nao, vì không ai lại không hạnh phúc
khi được gặp “người mình
yêu quý nhất”, huống chi được
gặp chính Đấng Cứu Độ, vị
đại ân nhân của mình.
Thời
điểm Chúa Giêsu giáng sinh được
người ta gọi theo Anh ngữ là CHRISTMAS.
Chữ Christmas tạo thành bởi chữ CHRIST
(Đức Kitô) và tiếp vĩ ngữ
MAS (lễ). Do đó, Christmas nghĩa là Lễ
Giáng Sinh (mặc nhiên hiểu là Chúa
Giêsu giáng sinh). Tương tự, chúng
ta cũng có Candlemas– tức là Lễ
Nến (Lễ Đức Mẹ Dâng Chúa
Giêsu, sau Lễ Giáng Sinh 40 ngày).
Thật
kỳ lạ, người ta dùng “mốc”
Chúa Giêsu giáng sinh để tạo nên
công lịch (dương lịch), và rồi
cả thế giới cũng đồng ý sử
dụng. Ngay cả những người vô thần
cũng phải công nhận như vậy. Tại
sao? Bởi vì người ta thấy hoàn
toàn chuẩn lý, chứ không chỉ là
“đa số hơn tiểu số”. Không
chỉ vậy, người ta còn gọi Năm
Dương Lịch là “Year of our Lord”,
nghĩa là “Năm của Chúa”
(sát nghĩa là “Chúa của chúng
ta”). Thật là kỳ diệu quá!
Chắc
chắn rằng từ cổ chí kim, trên
thế giới này không có vị lãnh
đạo nào hoặc vị lập đạo
nào được cả thế giới đón
nhận minh nhiên như vậy. Tạ ơn Chúa
và thật hãnh diện khi chúng ta được
nhận ra Chúa Giêsu là Ánh Sáng
của Thiên Chúa và Ánh Sáng
soi chiếu thế gian.
Thánh
Phaolô cho biết: “Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên
Chúa đã phán dạy cha ông chúng
ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời
sau hết này, Thiên Chúa đã phán
dạy chúng ta qua Thánh Tử”
(Dt 1:1). Trực tiếp chứ không qua trung gian
ngôn sứ nào khác. Thánh Tử là
Chúa Giêsu, là Ngôi Hai Thiên Chúa,
là Đấng Yêu Thương (1 Ga 4:8 &
16). Thánh Phaolô nói rằng Ngài phản
ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh
trung thực của bản thể Thiên Chúa.
Người là Đấng dùng lời
quyền năng của mình mà duy trì
vạn vật Ngài là Đấng tẩy
trừ tội lỗi, Ngài ngự bên hữu
Đấng Cao Cả trên trời, Danh hiệu
Ngài được thừa hưởng, cao cả
hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu
thì Ngài lại trổi hơn họ bấy
nhiêu (Dt 1:3-4).
Xưa
nay Thiên Chúa chưa hề nói với
vị thiên thần nào như đã
nói với Đức Giêsu: “Con
là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã
sinh ra Con. Ta sẽ là Cha Người, và
chính Người sẽ là Con Ta”
(Dt 1:5). Khi đưa Trưởng Tử Giêsu
vào thế giới loài người, chính
Thánh Phụ cũng đã minh định:
“Mọi
thiên thần của Thiên Chúa phải
thờ lạy Người”
(Dt 1:6).
Chúa
Giêsu là Trưởng Tử, là Huynh
Trưởng, là Sư Phụ, là Mặt
Trời Công Chính. Giáo huấn của
Ngài giản dị và ngắn gọn nhưng
hàm súc và thâm thúy: Yêu
thương. Tất cả chỉ tóm gọn
là mến Chúa và yêu người.
Nghĩa là yêu thật, phải chứng tỏ
bằng hành động chứ không nói
suông. Như Thánh Giacôbê xác
định: “Đức
tin không có việc làm là đức
tin chết”
(Gc 2:17 & 26). Lời nói gió bay, làm
thì mới đáng tin! Người ta rất
sợ những người mang họ “hứa”.
Đối với dụ ngôn Phú hộ và
Ladarô (x. Lc 16:19-31), có lẽ người ta
nghe riết có thể hóa… nhàm,
nhưng đó là chuyện có thật
chứ không là tiểu thuyết hoặc
viễn tưởng. Chúa rất thực tế
khi thể hiện lòng xót thương và
dạy người ta yêu thương nhau, vì
Ngài bảo không thể cho hòn đá
khi người ta cần bánh hoặc cho con rắn
khi người ta cần cá (Mt 7:9).
Mỗi
khi thấy dân chúng lầm than vất vưởng,
Ngài luôn chạnh lòng thương (x.
Mt 9:35-37), và rồi Ngài đã thể
hiện tình thương ấy rất nhiều
lần và rất cụ thể. Ngài đã
làm sáng ngời tình yêu thương
ở bất cứ nơi nào Ngài tới,
chúng ta là môn đệ của Ngài
thì cũng phải chiếu loại ánh
sáng ấy cho hết mọi người, mọi
nơi. Trong thời cánh chung này, Chúa
không sai ai mà đích thân Ngài
đến để minh chứng tình yêu,
để ban phát Lòng Thương Xót,
đồng thời Ngài cũng thúc giục
mọi người noi gương Ngài mà
thể hiện Lòng Thương Xót với
tha nhân như Ngài vậy. Trao tặng hoàn
toàn miễn phí và vô điều
kiện, đối với cả kẻ thù
nữa. Ánh sáng Tình yêu dẫn tới
Nguồn sáng Cứu độ.
SÁNG
NGỜI ƠN CỨU ĐỘ
Con
Người Giêsu chính là Ngôi Hai
Thiên Chúa. Thánh Gioan xác định:
“Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên
Chúa, và Ngôi Lời là Thiên
Chúa. Lúc khởi đầu, Người
vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ
Ngôi Lời, vạn vật được tạo
thành, không có Người thì chẳng
có gì được tạo thành”
(Ga 1:1-3). Ngôi Lời đó đã hóa
thành nhục thể, mặc xác phàm,
trở nên hoàn toàn giống phàm
nhân – trừ tội lỗi. Thật vậy,
“điều đã được tạo
thành ở nơi Người là sự
sống, và sự sống là ánh sáng
cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi
trong bóng tối, và bóng tối đã
không diệt được ánh sáng”
(Ga 1:4-5). Chính Ngôi Lời Nhập Thể là
Ánh sáng chiếu soi muôn dân, là
Ánh sáng Cứu độ.![](%5BNg%C3%A0y%20GS%5D%20%C3%81NH%20S%C3%81NG%20%C4%90%E1%BB%A8C%20KIT%C3%94_html_m66d6c242.jpg)
Trước
đó 6 tháng, Thiên Chúa đã
sai Gioan đến để làm chứng về
Ánh sáng, dù ông không là ánh
sáng, mà chỉ để mọi người
nhờ ông mà tin (x. Ga 1:6-8). Thánh Gioan
là “nhân vật quan trọng” (VIP –
very important person) bởi vì ông là người
đi tiên phong để mở đường
sửa lối cho Cứu Chúa Giêsu. Ông
là vị “ngôn sứ giao thời”
– ngôn sứ cuối cùng của Cựu
ước và là ngôn sứ nối kết
với Tân ước. Trọng trách của
ông rất đặc biệt, nhưng ông
biết có một “siêu VIP” chính
là Đức Kitô, đến sau mà có
trước, như ông giải thích: “Người
đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi,
vì Người có trước tôi”
(Ga 1:15).
Trình
thuật Phúc Âm hôm nay nhắc đi
nhắc lại 5 lần danh từ “Ngôi Lời”
và 8 lần danh từ “ánh sáng”.
Hơn ai hết, Thánh Gioan biết rõ Ngôi
Lời vô cùng quan trọng, vì “Ngôi
Lời là ánh sáng thật, ánh
sáng đến thế gian và chiếu soi
mọi người” (x. Ga 1:9).
Tuy
nhiên, có 9 người thôi mà lại
có tới 10 ý kiến, Phúc Âm gọi
dạng đó là “lúa và cỏ
lùng”, người đời gọi là
“vàng thau lẫn lộn”. Thế nên,
“Ngài Ở GIỮA thế gian, và thế
gian đã NHỜ Ngài mà có, nhưng
lại KHÔNG nhận biết Ngài. Ngài
ĐÃ ĐẾN nhà mình, nhưng
người nhà CHẲNG chịu đón
nhận” (Ga 1:10-11). Quả thật, đó
là một lời cảnh báo rất cấp
bách đối với mỗi chúng ta ngày
nay!
Thật
vậy, chỉ những ai thực sự tiếp
nhận Ánh sáng Đức tin và Ánh
sáng Yêu thương thì mới xứng
đáng lãnh nhận Ánh sáng Cứu
độ. Chúng ta thật diễm phúc vì
chính Ngôi Lời đã trở nên
người phàm và cư ngụ giữa
chúng ta – Emmanuel, chúng ta cũng đã
được nhìn thấy vinh quang của Ngài
là Con Một đầy tràn ân sủng
và sự thật. Và rồi tất cả
chúng ta còn được lãnh nhận
hết ơn này đến ơn khác. Nếu
chúng ta đã “được cho không
thì cũng phải cho không như vậy”
(Mt 10:8). Đó là công bình. Tất
cả là Hồng ân (Rm 4:16) thế nên
tất cả phải “miễn phí”
hoàn toàn theo Tôn Ý của Chúa
Giêsu.
Thánh
“phượng hoàng” Gioan nói: “Ai
giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy
tình yêu Thiên Chúa đã thực
sự nên hoàn hảo”
(1 Ga 2:5). Quả thật, “bạn rất khôn
ngoan vì bạn mang Chúa Giêsu đến
cho những tâm hồn chưa nhận biết
Ngài” (Cn 11:30). Giáng sinh là bài
học về sự nhập thế, là lên
đường, là vào đời, là
ra khơi,… để có thể đích
thân đến với nhau, trao cho nhau nụ cười
thân ái, bắt tay nhau thân thiện. Đó
là cách kiến tạo hòa bình
giản dị nhưng rất cụ thể.
Lạy
Thiên Chúa, xin thương tha thứ, bởi
vì chúng con là những tội đồ
(Lc 18:9-14), lâu nay vẫn câu nệ đủ
thứ, chưa thực sự thể hiện đức
ái đúng như Ngài mong muốn. Xin
giúp chúng con chiếu tỏa Ánh sáng
Đức Kitô trong hoàn cảnh sống của
mỗi chúng con, xin giúp chúng con can đảm
và nhiệt thành dấn thân thực sự
chỉ vì muốn làm sáng danh Ngài
chứ không vì ý đồ riêng tư
nào khác, nhờ vậy chúng con mới
khả dĩ tận hưởng sự bình an
đích thực trong cuộc sống. Chúng
con cầu xin nhân danh Chúa Hài Đồng,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|