"Thượng Đế
khi đem mình vào đời, có hỏi ý kiến mình đâu.
Nên chắc chắn là khi Ngài gọi mình đi cũng chẳng
cần thông báo trước.."
Nhiều khi chúng ta sống mà quên bẵng
đi là mình có thể chết bất cứ lúc nào. Ta hối
hả sống, vui, buồn, khỏe, yếu, ta cứ
lướt qua rồi không ngoái đầu lại nhìn chuỗi
ngày tháng ta đã tiêu hao của một đời người..
Cho đến khi có một người bạn vừa ngã bệnh,
bệnh nặng, không biết sẽ mất đi lúc nào, lúc
đó ta mới xa, gần, hốt hoảng gọi nhau.
Tưởng như chưa từng có người bạn nào
“Chết” bao giờ...
Hay ta có một người thân trong gia đình, đang rất
khỏe vừa báo tin bị bệnh hiểm nghèo. Gia
đình, họ hàng cuống lên, sợ hãi như chưa nghe
đến ai nói về cái chết bao giờ, chưa chứng
kiến cảnh vào bệnh viện, cảnh tang ma bao giờ.
Cả hai người trên có thể đã ngoài
70 tuổi. Lạ thật ! Cái tuổi
nếu có chết thì cũng đã sống khá lâu trên đời
rồi, sao những người chung
quanh còn hoảng hốt thế.
Hóa ra người ta, không ai muốn nghe đến chữ
“Chết”, dù chữ đó đến với mình hay với
người thân của mình.
Hình như không ai để ý đến mỗi sáng chúng ta
thức dậy, nhìn thấy mặt trời mọc (nếu
còn để ý đến mặt trời mọc) là chúng ta
đã tiêu dùng cái ngày hôm qua của đời sống mình
Có người vì công việc làm ăn, cả tuần mới
có thời giờ ngửng mặt nhìn lên mặt trời.
Buổi sáng còn tối đất đã hấp tấp ra
đi, buổi chiều vội vã trở về lúc thành phố
đã lên đèn, làm gì nhìn thấy mặt trời. Nhưng mặt
trời vẫn nhìn thấy họ, vẫn đếm mỗi
ngày trong đời họ. Họ tiêu mất
cái vốn thời gian của mình lúc nào không biết.
Tiêu dần dần vào cái vốn Trời cho mà
đâu có hay. Rồi một hôm nào đó bỗng nhìn kỹ
trong gương, thấy mình trắng tóc.
Hốt hoảng, tiếc thời gian quá! Khi nghe tin những
người bạn bằng tuổi mình, bệnh tật
đến, từ từ theo nhau rơi
xuống nhanh như mặt trời rơi xuống nước,
họ vừa thương tiếc bạn vừa nghĩ
đến phiên mình.
Thật ra, nếu chúng ta bình tâm nghĩ lại một chút,
sẽ thấy “Cái chết” nó cũng đến tự nhiên
như “Cái sống” .
Đơn giản, mình phải hiểu giữa sống và
chết là một sự liên hệ mật thiết, vì lúc
nào cái chết cũng đi song song từng ngày với cái sống.
Dẫu biết rằng, đôi khi có những
cái chết đến quá sớm, nhưng ta cũng đâu
có quyền từ khước chết.
Tôi biết có người mẹ trẻ, con của bạn
thân tôi.. Chị bị ung thư, chị
cầu xin Thượng Đế cho sống đến khi
đứa con duy nhất của mình vào Đại Học.
Chị không cưỡng lại cái chết, chị chỉ
mặc cả với Thượng Đế về thời
gian vì con chị lúc đó mới lên 3 tuổi.
Thượng Đế đã nhận lời
chị. Ngày con chị tốt nghiệp Trung Học, chị
ngồi xe lăn đi dự lễ ra
trường của con và tuần lễ sau chị qua đời.
Trong suốt mười mấy năm trị bệnh, chị
vẫn làm đủ mọi việc: chị đội tóc
giả đi làm, đến sở đều đặn, lấy
ngày nghỉ hè và ngày nghỉ bệnh đi trị liệu.
Những bạn làm chung không ai biết chị
bị ung thư, ngay cả xếp của chị. Khi họ biết ra, thì là lúc chị không đứng
được trên đôi chân mình nữa.
Chị sửa soạn từng ngày cho cái chết
với nụ cười trên môi. Vẫn vừa đi
làm, vừa cơm nước cho chồng con, ân cần
săn sóc cha mẹ, hiền hòa giúp đỡ anh em trong nhà,
chị mang niềm tin đến cho tất cả những
người thân yêu của mình.
Sau ba năm chị mất, cậu con trai mỗi năm vẫn
nhận được một tấm thiệp sinh nhật
mẹ viết cho mình (Mẹ đã nhờ qua người
dì gửi hộ).
Hôm sinh nhật 21 tuổi của cậu cũng vào ngày giỗ
năm thứ ba của Mẹ, cậu nhận được
tấm thiệp mừng sinh nhật mình, với dòng chữ
nguệch ngoạc, chị viết cho con: “Mừng sinh nhật
thứ 21 của con. Hãy bước vui trong
đời sống và nhớ rằng mẹ luôn luôn bên cạnh
con. “
Tôi đọc những dòng chữ mà ứa nước mắt.
Tôi nghĩ đến chị với tất
cả lòng cảm phục. Chị là
người biết sống trong nỗi chết.
Khi không thắng được bệnh tật,
chị biết hòa giải với nó để sống chậm
lại với nó từng ngày cho con mình. Chắc
“Cái chết” cũng nhân nhượng với chị, thông cảm
với chị như một người bạn.
Một chị bạn kể cho nghe về một
bà bạn khác. Bà này mới ngoài sáu mươi, nhanh nhẹn,
khỏe mạnh và tính nết vui vẻ, yêu đời.
Nhưng khi nào đi ra khỏi nhà bà cũng mang theo một bộ
quần áo đặc biệt, đủ cả giầy vớ
bỏ vào một cái túi nhỏ riêng trong va-li.
Hỏi bà, sao lại để bộ này ra riêng một gói vậy,
bà thản nhiên nói:“Nếu tôi chết bất thình lình ở
đâu, tôi có sẵn quần áo liệm, không phiền đến
ai phải lo cho mình.”
Bà mang theo như thế lâu lắm rồi,
tôi không biết có khi nào bà ngắm nghía mãi, thấy chưa
dùng tới, bà lại đổi một bộ mới khác
cho ưng ý không?
Giống như người phụ nữ sắp đi dự
tiệc hay cầm lên, để xuống, thay đổi áo
quần sao cho đẹp. Đi vào cái chết
cũng có thể coi như đi dự một đám tiệc.
Tôi nghĩ đây là một người khôn ngoan, sẵn sàng
cho cái chết mà bà biết nó sẽ đến bất cứ
lúc nào.
Bà đón nhận cái chết tự nhiên, giản dị
như đi dự tiệc, hay một chuyến đi xa,
đi gần, nào đó của mình.
Nhưng không phải ai cũng nghĩ về
cái chết giản dị như vậy. Phần
đông muốn được sống lâu, nên bao giờ gặp
nhau cũng thích chúc cho nhau tuổi thọ.
Thích hỏi nhau ăn gì, uống gì cho trẻ trung mãi. Loài
người nói chung, càng ngày càng thích sống
hơn chết.
Họ tìm kiếm đủ mọi
phương thuốc để kéo dài tuổi thọ.
Người ta ức đoán, trong một tương lai rất
gần, loài người có thể sống đến 120 tuổi
dễ dàng với những môn thuốc ngăn ngừa bệnh
tật và bồi dưỡng sức khỏe.
Rồi người ta sẽ còn tạo ra những
bộ phận mới của nội tạng để thay
thế cho những bộ phận gốc bị nhiễm bệnh.
Gan, ruột, bao tử v.v, sẽ được thay như
ta thay những phần máy móc của một cái xe cũ. Chúng ta, rồi sẽ sống chen chúc nhau trên mặt đất này.
Chỉ tiếc một điều là song song với
việc khám phá ra thuốc trường thọ người
ta cũng phải phát minh ra những người máy (robot)
để chăm sóc những người già này, vì con cháu
quá bận (chắc đang chúi đầu tìm thuốc
trường sinh) không ai có thời giờ chăm sóc cha mẹ
già.
Theo tôi, ngắm nhìn hình ảnh một cụ ông hay một cụ
bà lưng còng, tóc bạc, đang cô đơn ngồi trong một
căn buồng trống vắng, được một
người máy đút cơm vào miệng, thật khó mà cảm
động, đôi khi còn cho ta cái cảm giác tủi thân nữa.
Nhưng sống như vậy mà có người
vẫn thích sống.
Một người đàn ông ngoài bẩy mươi, bị
bệnh tim nặng, đang nằm trong
phòng đặc biệt (ICU) lúc mơ màng tỉnh dậy, nhắn
với các con cháu là khi nào vào thăm không ai được mặc
áo mầu đen. Ông kiêng cữ mầu của
thần chết. Ông quên rằng thần chết,
đôi khi, có thể đến với chiếc áo mầu hồng.
Thật ra, chính nhờ “cái chết” cho ta nhận
biết là “cái sống” đẹp hơn và có giá trị
hơn, dù có người sống rất cơ cực vẫn
thấy cuộc đời là đẹp.
Những bậc thiên tài, những nhà văn lớn đã tự
tìm về cái chết khi họ bắt đầu nhìn thấy
cái vô vị trong đời sống như nhà văn Ernest
Hemingway, Yasunari Kawabata và họa sĩ Vincent van Gogh, v.v… Chắc họ không muốn sống vì thấy mình
không còn khả năng hưởng hết vẻ đẹp
của “cái sống” nữa.
Họ là một vài người trong số nhỏ trên mặt
đất này sau khi chết để lại tên tuổi
trên những trang sử, lưu lại hậu thế, còn phần
đông nhân loại, sau khi chết một thời gian, không
để lại một di tích nào Con cháu có thờ cúng
được một hai thế hệ, sau đó tên tuổi
mờ dần, mất hẳn theo ngày tháng, vì chính những kẻ
thờ phụng đó lại tiếp theo nằm xuống
cùng cát bụi.
Ðời sống con người chóng qua như cỏ, như
bông hoa nở trong cánh đồng, một cơn gió thoảng
đủ làm nó biến đi, nơi nó mọc cũng không
còn mang vết tích.(Thánh Vịnh)
Thượng Đế khi đem mình vào đời, có hỏi
ý kiến mình đâu. Nên chắc chắn là khi Ngài gọi
mình đi cũng chẳng cần thông báo trước..
Chúng ta cứ thong thả sống từng ngày, khi nào chết
thì chết, mặt trời mọc rồi mặt trời lặn,
bông hoa nở rồi bông hoa tàn, thế thôi.
Tại sao ta phải cay cú với cái chết?
Hãy dùng trí tưởng tượng của mình, thử hình
dung ra một thế giới không có cái chết(*)
Chắc lúc đó chúng ta sẽ không còn không khí mà thở chứ
đừng nghĩ đến có một phiến đất
cho bàn chân đứng.
Trần Mộng Tú
|