HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 31
THƯỜNG NIÊN A
Mi 1,14b-2,2b.8-10 ; 1 Tx 2,7b-9.13 ;
Mt 23,1-12
TRÁNH
THÓI GIẢ HÌNH VÀ KIÊU CĂNG CỦA NGƯỜI
PHA-RI-SÊU
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 23,1-12
(1) Bấy giờ,
Đức Giê-su nói với đám đông
và các môn đệ Nguời rằng: (2)
“Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu
ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. (3)
Vậy, những gì họ nói thì anh em
hãy làm, hãy giữ, nhưng đừng
theo hành động của họ mà làm, vì
họ nói mà không làm. (4) Họ bó
những gánh nặng mà chất lên vai
người ta, nhưng chính họ thì lại
không buồn động ngón tay vào. (5) Họ
làm mọi việc cốt để cho thiên hạ
thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp
kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài. (6) Họ ưa ngồi chỗ nhất trong
đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu
trong hội đường, (7) ưa
được người ta chào hỏi
ở những nơi công cộng và
được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (8)
Phần anh em, thì đừng để ai gọi
mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có
một Thầy; còn tất cả anh em đều
là anh em với nhau. (9) Anh em cũng đừng
gọi ai dưới đất này là cha
của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha
trên trời. (10) Anh em cũng đừng để
ai gọi mình là người lãnh
đạo, vì anh em chỉ có một vị
lãnh đạo, là Đức Ki-tô. (11) Trong anh
em, người làm lớn hơn cả,
phải làm người phục vụ anh em. (12) Ai
tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; Còn ai
hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
2. Ý
CHÍNH:
Tin
Mừng hôm nay đề cập đến thái
độ các môn đệ phải có đối
với Thiên Chúa và tha nhân. Phải tránh
thói đạo đức giả của các
đầu mục Do thái vì “nói mà không
làm”, “chỉ biết bó nặng chất lên vai
người khác” và “làm mọi việc
để tìm tiếng khen” nơi người
đời. Các môn đệ phải tránh kiêu
ngạo khi đòi làm thầy, làm cha và
làm người chỉ đạo đang khi
chỉ có một ông Thầy tối cao là
Đức Giê-su, một Cha chung là Thiên Chúa
và một vị Mục Tử duy nhất là
Đức Ki-tô.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Các kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ, là
những thầy dạy về Luật pháp của
Mô-sê. Đa số kinh sư là thành viên của
phái Pha-ri-sêu và có ảnh hưởng
lớn trong đời sống tôn giáo và
chính trị của dân Do thái. Tại Giê-ru-sa-lem,
các kinh sư chiếm 1/3 số ghế trong
Thượng Hội Đồng Do Thái. Tại
các địa phương như thị trấn,
làng xã, họ rất có uy tín đối
với dân chúng và thường
được mời làm quan tòa xét
xử các vụ tranh chấp. + Các người
Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một
phái tôn giáo mà thành viên là những
người Do thái nhiệt thành và
đạo đức. Họ tách biệt khỏi
dân chúng do cách ăn mặc và xử
sự. Họ rất tôn trọng Thánh Kinh và
các truyền thống của cha ông. Có khi coi
trọng truyền thống hơn cả Thánh Kinh
như đòi dân chúng phải tuân giữ
các tục lệ của cha ông về ngày hưu
lễ Sa-bát rất chi li. Nhiều người trong
phái Pha-ri-sêu có học vị kinh sư hay luật
sĩ. Người Pha-ri-sêu thường
mắc phải các thói như giả hình,
kiêu căng, ganh tị… đã bị Đức
Giê-su nặng lời quở trách (x Mt 23,1-22),
nên họ rất căm hận và tìm cách
giết hại Người. + Ngồi trên tòa ông
Mô-sê mà giảng dạy: Toà của Mô-sê ngày xưa
được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên
bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên
Chúa và dân Do Thái. Còn thời Chúa Giêsu, tòa Mô-sê tức
là bục giảng được kê trong hội
đường. Các kinh sư thường
ngồi trên bục mà giảng dạy Luật Mô-sê vào
ngày Sa-bát.
- C 3-4: + Những gì họ
nói thì anh em hãy làm, hãy giữ: Đức Giê-su dạy dân
chúng phải vâng nghe và tuân giữ những
lời giảng dạy của các kinh sư và
Pha-ri-sêu, vì họ đang nắm giữ
quyền hành phát xuất từ Thiên Chúa (x
Ga 19,11). Tuy nhiên dân chúng không được nghe theo
những suy nghĩ hẹp hòi (x. Mt 9,3-4)
những kiểu giải thích Luật sai lạc
vụ lợi (x. Mt 15,1-20), nhất là phải
tránh thứ men gian tà đạo đức
giả của các kinh sư và Pha-ri-sêu (x. Mt 16, 6). +
Nhưng đừng theo hành động của
họ: Đừng bắt chước
các gương xấu của các Biệt phái
và kinh sư. Vì lời nói của họ
thường không đi đôi với việc
làm. Họ thường “nói mà không làm”
hay “nói một đàng làm một nẻo !”. +
họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta: “Bó nặng”
hay cái “ách”, thường được
Đức Giê-su và các Tông đồ dùng
để ám chỉ 613 điều khoản trong Luật
và những lề thói truyền thống mà
dân Do Thái phải tuân giữ giống như Lề
Luật (x. Cv 15,10). Điều này gợi lên
hình ảnh một người nô lệ phải
vác những gánh nặng trên vai (x. Gl 5,1),
trái với “gánh nhẹ nhàng” mà
Đức Giê-su hứa ban cho các môn đệ
(x. Mt 11,30). Ở đây “gánh nặng” ám
chỉ lối giải thích Luật của các kinh
sư Do Thái vừa chi tiết vụn vặt,
lại vừa nghiêm khắc và khó
giữ được trọn vẹn. Điều
này đè nặng trên lương tâm của dân
Do Thái, giống như cái “ách nặng”
được chủ buộc vào cổ trâu bò
để bắt chúng cày bừa kéo xe.
+
Nhưng chính họ lại không buồn động
ngón tay vào: Đức Giê-su tố cáo
sự ích kỷ và thiếu lòng
thương xót của các kinh sư khi buộc dân
chúng tuân giữ Luật trong từng chi
tiết, đang khi chính họ lại không thực
hành.
- C 5-7: + Họ làm mọi việc
cốt để cho thiên hạ thấy: Đây là thói háo danh
của các kinh sư và người Pha-ri-sêu. +
Đeo những hộp kinh thật lớn:
Hộp kinh chứa thẻ kinh. Thẻ kinh là
mảnh da mỏng trên đó viết 4 đoạn Kinh
Thánh quan trọng là Đnl 6,4-9; 11,13-21; Xh 13, 3-10;
13,11-16. Thẻ kinh này được chứa
trong hộp bằng gỗ nhỏ xíu mà
người Do Thái thường cột vào
tay và trán mỗi khi đọc kinh cầu
nguyện, để nhắc họ nhớ và
tuân giữ (x. Xh 13,9). + Mang những tua áo
thật dài: Các kinh sư và
người Pha-ri-sêu thường may áo có
tua dài nhằm phô trương. Thói háo danh
khiến họ muốn được biệt
đãi ở mọi nơi. + Ưa ngồi chỗ
nhất trong đám tiệc và chiếm hàng
ghế đầu trong hội đường:
Người Do thái thường xếp chỗ
ngồi trong các đám tiệc hay trong hội
đường theo tuổi tác, chức vụ
và tài năng. Tuổi tác và chức
vụ là điều dễ dàng nhận ra, còn
tài trí khôn ngoan thì khó mà nhận biết.
Các kinh sư và Pha-ri-sêu thường tỏ ra
có tài trí hơn người và tranh
dành nhau ngồi chỗ nhất trong đám tiệc
và hội đường. + Ưa
được người ta chào hỏi
ở những nơi công cộng: Họ
tự coi mình là bề trên nên muốn
được người khác cúi chào
ở nơi công cộng. + Ưa được
người ta gọi mình là “ráp-bi”:
“ráp-bi” là tước hiệu dân chúng
thường dùng khi thưa chuyện với
các tiến sĩ Luật. Các môn đệ
cũng thường gọi Đức Giê-su như
thế (x. Mt 26,25.49; Ga 20,16).
- C 8-10: + Đừng để ai
gọi mình là “ráp bi”: Đức Giê-su không đả
phá các chức vụ xã hội hay phẩm
trật trong Hội Thánh. Nhưng Người
muốn các môn đệ đừng tự cao
khi đòi người khác phải gọi
mình là “ráp bi” nghĩa là “Thầy”. Do
đó câu này có thể dịch như sau: “Anh em
đừng ham làm thầy thiên hạ” (x. Gc 3,1). +
Vì anh em chỉ có một Thầy:
Người duy nhất xứng đáng làm
“Thầy” không ai khác hơn là Đức Giê-su
(x. Ga 13,13-14). Còn tất cả mọi người
đều là môn đệ và anh em với nhau. +
Đừng gọi ai dưới đất là
cha: Đức Giê-su không đả phá
cách xưng hô cha con trong gia đình, vì chính
Người đã từng dạy
người ta phải hiếu kính cha mẹ (x. Mt
15,4-6; 19,19). Người cũng không chống lại
thói quen trong Thánh Kinh: đồ đệ nhận
sư phụ làm cha tinh thần như ngôn sứ
Ê-li-sa gọi ngôn sứ Ê-li-a là “Cha ơi !” (x. 2 V
2,12). Thánh Phao-lô cũng ví mình như
người cha trong Đức Ki-tô mà
nhờ Tin Mừng ngài đã sinh ra các
tín hữu (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19; Plm 10), và
đã cư xử với họ như cha
với con (x. 1 Tx 2,11). + Chỉ có một Cha là
Cha trên trời: Cha trên trời ám chỉ
Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha
theo bản tính. Do đó, khi ai được
người khác gọi là cha thì phải ý thức mình
là cha theo nghĩa được tham phần vào
tước hiệu của Thiên Chúa Cha. +
Đừng để ai gọi mình là
người lãnh đạo: người
lãnh đạo được hiểu là
mục tử và thủ lãnh cộng
đoàn. Chỉ mình Đức Giê-su mới
là Mục Tử duy nhất vì Người
đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga
10, 11). Còn các mục tử khác như linh
mục, mục sư… chỉ được tham
phần vào chức vụ lãnh đạo
tối cao của Đức Giê-su mà thôi.
- C 11-12: + Người làm
lớn hơn phải là người phục
vụ: Đức
Giê-su nhắn nhủ các môn đệ phải
có lòng khiêm nhường, tự hạ
và tôn trọng kẻ khác. Họ không
được tranh giành nhau địa vị (x. Mt 20,21-28),
nhưng phải phục vụ nhau (x. Mt 20,28; Ga 13,14). + Ai
tôn mình lên sẽ bị hạ xuống:
Đức Giê-su không cấm các môn đệ chu
tòan bổn phận dạy bảo các tín
hữu (x Mt 28,20). Nhưng Người đòi
các ông thi hành quyền lãnh đạo trong tinh
thần khiêm hạ phục vụ (x. 1 Pr 4,10-11). + Ai
hạ mình xuống sẽ được tôn lên:
Ai càng phục vụ thì càng có địa
vị cao trong cộng đoàn (x. Mt 25,34-36), xứng
đáng được “sự sống muôn
đời” (x. Mt 25,46).
4. CÂU
HỎI:
1) Các kinh sư và
người Pha-ri-sêu là những ai ? Khác nhau
thế nào ? 2) Ngồi trên tòa ông Mô-sê nghĩa
là gì ?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Các kinh sư và các
người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà
giảng dạy. Vậy những gì họ nói
thì anh em hãy làm hãy giữ. Nhưng
đừng theo hành động của họ
mà làm, vì họ nói mà không làm” (Mt
23,2-3).
2. CÂU
CHUYỆN:
1. BÀI
HỌC NHỚ ĐỜI
Trong
một làng kia, có một ông thầy đồ. Ông
nghĩ mình là người hay chữ nên hay
khinh thường dân làng. Một hôm, thầy
đồ leo lên một chiếc đò để qua bên
kia sông ăn giỗ. Hôm ấy đang mùa
nước lũ, nên dòng sông chảy xiết. Khi
bác lái đò chèo thuyền ra tới
giữa dòng, thì thầy lên tiếng hỏi:
“Này ông lái đò, ông có biết chữ
“nhất một, nhị hai” không ? Bác lái đò
đáp: “Thưa không”. Thầy đồ nói:
“Thế là ông đã đi đứt phân
nửa cuộc đời rồi đó !”
Bấy giờ thuyền gặp chỗ
nước chảy mạnh, một khúc cây
đụng phải thuyền làm nó chao đảo
mạnh rồi lật úp, hất cả hai
người xuống sông. Cũng may, bác lái đò
đã kịp thời nắm
được cánh tay ông thầy đồ,
trước khi ông bị nước cuốn đi.
Bác lái đò vừa bơi vừa hỏi
thầy đồ: “Thưa thầy, thầy không biết
bơi sao ?” Thầy hổn hển đáp lại:
“Không, không”. Bác lái đò liền nói:
“Thế là thầy đã đi đứt
cả cuộc đời rồi đó !”. Nói xong,
bác ta tiếp tục dìu thầy vào bờ.
Hôm ấy thầy đồ bị một phen hú
vía và uống no thứ nước sông
nhơ bẩn. Từ ngày ấy, thầy đồ
ít nói hẳn và không bao giờ còn
dám tỏ ra khinh thường những
người ít học nữa.
2.
MỘT VỊ ĐẠO SĨ GIẢ HIỆU:
Đêm
kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một
ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một
người nhà giàu để thả lưới bắt cá.
Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì đã bị
người giàu phát hiện phải chạy trốn.
Người này cho gia nhân bao vây hồ rộng mênh mông
để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám
gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi
nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng của tên trộm
đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo đã
lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi
dưới một gốc cây gần đó y như một
nhà đạo sĩ.
Sau
nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy
kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ
ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong
suy tư và cầu nguyện. Ngày hôm sau, tiếng đồn
về một vị đạo sĩ đang ngồi tu
luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà
phú hộ đang vang đi khắp vùng. Thế là thiện
nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô
đến gốc cây cạnh hồ để chiêm
ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả,
kẻ thì mang tiền bạc. Chẳng mấy chốc mà đồ
cúng được đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất
đắc dĩ. Bấy giờ nhà tu hành đã nhủ
thầm rằng: Thà ta cứ đánh lừa bà con để
sống thoải mái, còn hơn phải đi đánh cá vất
vả mà chẳng bắt được gì. Nghĩ thế
rồi, ông ta tiếp tục đóng vai nhà tu hành đắc
đạo: ngày đêm ông tụng niệm và nhận được
các đồ ăn dân làng mang tới dâng cúng.
3.
GƯƠNG KHIÊM HẠ NGHÈO KHÓ CỦA MỘT GIÁM MỤC:
Đức
Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa
Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong
thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục
thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội
của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi
chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người
nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức
Cha Topel đã thực thi quyết nghị của Công
Đồng giống như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Lời
Chúa: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh
giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để
lấy tiền giúp cho người nghèo. Với bốn ngàn
đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để
làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm
vườn, trồng rau, xin đầu cá người ta
vứt bỏ để nấu ăn. Nhiều
người không tán đồng hành động của
vị giám mục. Họ nói: “Vua thì phải sống cho ra
Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải
sống cho ra Giám mục”. Nguyên là một thạc sĩ toán
học, Đức Cha trả lời: “Không phải là
kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ,
chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ
với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy
vọng để sống xứng đáng với họ”.
4. LỐI SỐNG BÁC ÁI CÓ GIÁ
TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN VẠN BÀI GIẢNG:
Một
hôm thánh Phanxicô rủ một thầy dòng đi theo mình
như sau: “Chiều nay thầy trò mình sẽ cùng đi ra
ngoài giảng đạo nhé”. Sau một buổi chiều đi
rảo chung quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai thầy
trò quay trở về tu viện. Khi về tới nhà, thánh
nhân liền ngồi xuống ghế và nói: “Tạ ơn Chúa”,
rồi tiếp tục giữ im lặng. Thầy dòng đi
theo ngài liền hỏi: “Thưa thầy, thầy nói mình
đi ra ngoài giảng đạo, mà thực tế con đâu
thấy cha giảng gì cho ai đâu ?” thánh nhân mìm cười
trả lời: “Chính cách đi đứng tử tế, nói
năng chào hỏi những người gặp ngoài
đường, cách cư xử bác ái chân thành và ân cần
giúp đỡ tha nhân của thầy trò chúng ta đã là
một bài giảng hùng hồn, và có sức lay động lòng
người rồi đó con”.
Việt
Nam có câu: Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo”. Nghĩa
là rao giảng bằng lời nói mới chỉ giống như
hương thơm thoảng qua, còn gương sáng bác ái mới
làm cho người đời thán phục và tin vào lời chúng
ta rao giảng.
5. KHÔNG
ĐƯỢC BÁNG BỔ CHÚA QUA ĐỜI SỐNG BẤT
TOÀN CỦA MÌNH
Có
một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình
trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn
thế nữa, bà còn khinh ghét tất cả những hình
ảnh mà ông đã cho xâm trên thân mình.
Ngày
kia, trong một cố gắng muốn cải thiện
mối quan hệ với vợ, ông đã quyết
định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng trần
của mình. Trở về nhà, ông hãnh diện giơ lưng ra
cho vợ xem và hỏi: “Bà có biết ai đây hay không?”.
Rồi không đợi cho bà vợ trả lời, ông
liền nói: “Chúa đấy”.
Thế
nhưng, khi nhìn thấy hình xăm trên lưng của
chồng, bà vợ đùng đùng nổi giận và quát
lớn:
“Thật
là báng bổ. Chúa nào mà lại ở trên cái lưng trần bẩn
thỉu và nhớp nhúa của ông !”
Nói
rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất
vào tấm lưng của ông khiến ông phải chạy
trốn ra ngoài.
Sau
trận đòn ấy, ông đến ngồi dưới
một gốc cây và tấm tức khóc. Ông khóc không phải
vì trân đòn đau của bà vợ, mà vì ông nhận ra
rằng mình không có cách nào để làm vui lòng vợ luôn
tự hào về tình trạng đạo đức của
mình.
3. SUY
NIỆM:
1) PHÂN BIỆT HOA THẬT VỚI HOA
GIẢ:
Chuyện
kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Shaba nghe biết về
sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, muốn thử xem sự
khôn ngoan của vua Salomon thực hư ra sao, bà liền
gửi tặng nhà vua hai bó hoa giống y như nhau, một
bó gồm những bông hoa thật và một bó gồm toàn hoa
giả. Bấy giờ vua Sa-lô-mon liền truyền cho lính
gác mở cửa sổ, cho hàng đàn ong bướm quanh
vùng có thể bay vào trong phòng. Các chú ong và các nàng bướm kia
liền đậu vào những bông hoa thật để hút
nhụy.
Các
bông hoa giả có sắc đẹp nhưng lại thiếu
mùi hương, có hình ảnh nhưng lại không sự
sống.
Cũng
vậy, những kẻ đạo đức giả nói
nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hoặc “họ
chỉ nói mà không làm”. Họ mền yếu với bản
thân nhưng lại quá nghiêm khắc với thuộc hạ.
2) PHẢI TRÁNH LỐI SỐNG
ĐẠO ĐỨC GIẢ:
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã quở trách
lối sống giả hình của các Kinh sư và Pharisiêu
như sau:
-
Họ nói mà không làm
-
Họ bó những gánh nặng lên vai người khác, còn
chính họ không động ngón tay vào.
-
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ trông
thấy và khen ngợi.
-
Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc,
chiếm hàng ghế đầu trong hội
đường, ưa được bái chào nơi công
cộng, và được người ta xưng hô là Thầy
(Rápbi).
Có
lẽ khi nghe Đức Giêsu quỏ trách như trên, ai trong
chúng ta cũng ít nhiều cảm thấy xấu hổ vì
nhận ra hình ảnh con người thật của mình
trong đó. Nếu không háo danh thì cũng thích khoa
trương; Nếu không hay kể công thì cũng muốn được
khen gợi; Nếu không ích kỷ thì cũng nói nhiều làm
ít…
3)
PHẢI TRÁNH THÓI TỰ CAO TỰ ĐẠI:
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giê-su cũng
dạy chúng ta phải tránh thói muốn làm cha làm thầy thiên
hạ của người Pha-ri-sêu qua : “Đừng
để ai gọi mình là thầy, là
người lãnh đạo, vì chỉ có
một Thầy, một người lãnh đạo tối cao
là chính Người. Người cũng dạy chúng ta đừng gọi ai
dưới đất này là cha, vì chỉ
có một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa mà thôi”. Thế mà
ở trường, các học sinh đều gọi
người dạy mình là thầy cô giáo, các
tín hữu gọi các tu sĩ là thầy tu
hay sư huynh. Rồi trong gia đình, chúng ta
cũng gọi đấng sinh thành ra mình là cha
mẹ, tín hữu gọi các linh mục tái sinh mình trong
phép rửa tội là cha, gọi giám mục là
đức cha, đức giáo hoàng là đức
thánh cha, và gọi nhiều vị là Giáo
phụ, Thượng phụ, Viện phụ… vậy
phải chăng các tín hữu chúng ta
đã làm sai lời Chúa dạy ?
Thực ra, chắc một
điều là Đức Giê-su không phá bỏ cơ
cấu của Hội Thánh. Người cũng
không muốn loại bỏ mọi phẩm trật và
quyền hành là những điều kiện
cần để duy trì cộng đoàn. Do đó, ngay
từ thời sơ khai, Hội thánh đã
không hiểu câu Lời Chúa nói trên theo nghĩa
đen, thánh Phao-lô luôn ý thức mình là
cha của các tín hữu và gọi họ
là con (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19). Trong Hội Thánh cũng
có những chức vụ như thầy
dạy (x. Cv 13,1), lãnh đạo (x. Cv 15,22).
Như vậy, qua câu này, Đức
Giê-su chỉ muốn dạy chúng ta: hãy nhớ
rằng mọi quyền bính đều bắt
nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về cho
vinh quang Thiên Chúa. Nếu có ai đang làm
thầy dạy người khác, làm
người lãnh đạo cộng đoàn,
là do họ đã được Đức
Giê-su chia sẻ quyền làm Thầy và làm lãnh
đạo của Người. Nếu cha mẹ được
con cái gọi là cha mẹ, là do họ đã
được tham phần vào quyền làm Cha
của Thiên Chúa. Nên dù chúng ta đang giữ
bất cứ vai trò lãnh đạo nào trong
Hội Thánh, chúng ta cũng cần có tinh thần
khiêm hạ như lời hôm nay: “Còn tất cả
đều là anh em với nhau, là con một Cha
trên trời” (Mt 23,8).
4) MÔN ĐỆ CỦA
CHÚA PHẢI TRÁNH ĐIỀU GÌ VÀ PHẢI
LÀM GÌ ?
Qua
bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta học tập
nơi Người mấy điều sau:
+
Lời nói phải đi đôi với việc
làm: Đức
Giê-su không cấm các kinh sư giảng dạy Lời
Chúa, cũng không cấm người Pha-ri-sêu giữ Luật
Mô-sê. Vì nếu họ không giảng dạy thì
làm sao dân chúng có thể nghe, hiểu và yêu
mến Lời Chúa, như người ta thường
nói: “Vô tri bất mộ”. Nếu họ không tuân
giữ Luật Mô-sê thì họ đâu còn
giữ đạo của Thiên Chúa. Điều
Đức Giê-su muốn các mục tử
của Người là phải tránh “nói mà không
làm”, “tránh đốc thúc người ta làm
còn mình chỉ khoanh tay đứng nhìn”. Chúng
ta cần thực hành lời Đức Giám Mục chủ
lễ phong chức linh mục nhắn nhủ các tân
chức như sau: “Con hãy TIN điều con đọc.
DẠY điều con tin và THI HÀNH điều con
dạy”.
+
Tránh thói đạo đức giả hình
bề ngoài:
Đức Giê-su đã nêu rõ các thói xấu
của các kinh sư và người Pha-ri-sêu
cần tránh là: “Làm mọi việc cố ý cho
người ta thấy”. Nên nhớ rằng:
“Hữu xạ tự nhiên hương!”: nếu
mình thật sự đạo đức thì
tự nhiên người khác sẽ biết, mà
không cần phải nói ra, phải phô trương công
đức trước mặt người
đời để cho người ta khen. Chỉ
những ai không có thực trong lòng, mới
tìm cách phô trương ra bề ngoài như
người ta thường nói: “Thùng
rỗng kêu to” và “Dốt hay nói chữ”.
+
Tránh thái độ tự cao tự mãn: Đức Giê-su cũng kêu gọi
các tín hữu phải tránh thái độ của các kinh
sư và người Pha-ri-sêu như : “Ưa
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm
hàng ghế đầu trong hội đường,
ưa được người ta chào hỏi
ở những nơi công cộng và
được thiên hạ gọi là “ráp-bi”,
tránh khinh dể những ai thua kém mình. Nên
học nơi Đức Giê-su sự “hiền lành và khiêm
nhường” trong lòng : “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy
học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường” (Mt 11,29). Phải tránh thói tự cao vì : “Cao
nhân tất hữu cao nhân trị”.
4.
THẢO LUẬN:
1) Thánh Phao-lô nói: “Anh
em hãy noi gương tôi, như tôi đã noi
gương Đức Ki-tô”. Người còn
kể ra trăm ngàn nỗi đau khổ ngài đã
phải chịu như bị đánh đòi,
bị đắm tàu, đói khát, rét
mướt, trần trụi… Như vậy phải
chăng Phao-lô là một con người phô
trương tự mãn ? 2) Ngày nay chúng ta
có nên gọi các người dạy học là
“thày, cô”, gọi hai đấng sinh thành là
“bố, mẹ”, gọi linh mục sinh ra các tín
hữu trong phép rửa tội là “cha” hay
không ? 3) Trong một bữa tiệc đông quan
khách, một người địa vị cao
nhất được chủ tiệc mời
ngồi vào bàn tiệc danh dự thì có nên
tự ý đến ngồi tại bàn cuối
để tỏ ra mình khiêm nhường không ? Tại
sao ?
5.
NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt
nạ vì sợ kẻ khác thấy rõ
sự thật về mình. Chúng con muốn
giữ uy tín cho mình, dù đó chỉ
là chiếc mặt nạ giả dối. Khi
đến với Chúa, chúng con cũng
thường mang những mặt nạ là
làm những việc đạo đức
bề ngoài để che giấu sự trống
rỗng trong tâm hồn. Có khi môi miệng chúng con
đang đọc kinh, mà lòng chúng con lại ở
xa Chúa. Chúng con cũng thường
ngắm mình trong gương, tự ru ngủ
và đánh lừa mình về những
ưu điểm mà thực ra chúng con không có, mà
chỉ là sản phẩm do sự tưởng
tượng. Xin giúp chúng con biết cởi
bỏ mọi thứ mặt nạ đã ăn
sâu vào da thịt chúng con, để chúng con thôi
đánh lừa người khác,
đánh lừa Chúa, và đánh lừa ngay
cả bản thân mình.
-
LẠY CHÚA. Nhiều lần chúng con đã tranh
giành địa vị với người
khác. Chúng con bực tức khi thấy ai
đó nhiều ưu điểm hơn chúng con, tài
giỏi và thành công hơn chúng con. Chúng con
hay dèm pha nói hành kẻ vắng mặt
mà chúng con không ưa nhằm hạ uy tín của họ.
Chúng con thường hay khoe khoang phóng
đại những thành tích của chúng
con. Xin giúp chúng con biết noi gương Chúa:
luôn sống khiêm hạ và vị tha bác ái. Xin
đừng để chúng con rơi vào các thói
hư của các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, đã bị Chúa khiển trách là giả
hình, ích kỷ và kiêu căng. Xin cho chúng con
luôn biết quan tâm phục vụ tha nhân noi gương
Chúa và Mẹ Ma-ri-a xưa
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM
ĐAN VINH - HHTM
|