Đức Giêsu nói với các
thượng tế vằ kỳ mục --- Suy niệm của
Noel Quession
Dụ
ngôn bắt đầu như thế và thực ra gởi
đến các từng lớp lãnh đạo của
thời đại Người, "các thượng
tế và kỳ mục”. Văn cảnh có tính chất bút
chiến: Đức Giêsu vừa đuổi những
kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21, 12-17),
rồi một cách tượng trưng Người đã
làm cây vả chết khô vì nó không có trái (Mt 21,18-22).
Những "kẻ cầm quyền"
ở Giêrusalem tức giận hỏi Người có
quyền gì để làm những hành động khiêu khích
ấy. Chính lúc đó, theo bản văn của Matthêu,
Đức Giêsu đáp lại bằng ba dụ ngôn: Hai
người con, những tá điền sát nhân, những
khách mời dự tiệc cưới (Mt 21,28
- 22,14). Cuộc khổ nạn đến
rất gần. Đức Giêsu thật
sự bị ám ảnh bởi ý tưởng Người
sẽ bị loại trừ bởi chính những
người lẽ ra phải tiếp đón Người.
Nhưng chúng ta không thể ở mãi trong cách
giải thích lịch sử" về cuộc khổ
nạn.
Nếu
chỉ áp dụng những dụ ngôn của Tin Mừng
‘chúng cho người khác’ thì quả là gian dối. Ngày
nay, các dụ ngôn được nói với mỗi
người chúng ta. Lời kêu gọi tối hậu
của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta:
"Bạn, X, Y,...., bạn nghĩ gì
về điều đó?"
Một người kia có hai con trai. ông ta
đến nói với người thứ nhất: "Này
con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho". Nó đáp:
"Con không muốn đâu!". Nhưng
sau đó, nó hối hận, nên lại đi
Bạn nghĩ gì
về điều này?.
Phản ứng
đầu tiên của chúng ta là thấy đứa con
quả là vô lễ khi nói với cha nó cách thiếu tôn
trọng. Và rồi chúng ta thấy nó dễ
thương, nó thay đổi ý kiến một cách thật
thà và đi hoàn thành ý muốn của cha nó.
Đức Giêsu, khi
đưa ra câu chuyện đơn sơ
này đã không cho một lời giải thích nào về
mặt tâm lý. Người chỉ cho chúng ta một con
người ‘thay đổi’, "hoán cải ". Và đó là một mạc khải củng cố
chúng ta. Thế giới hiện đại với
những dòng tư tưởng hiện nay, các phương
tiện truyền thông cố làm cho chúng ta tưởng
rằng con người bị điều kiện hóa và
như bị giam hãm luôn trong chủ nghĩa tất
định, lấy đi của chúng ta mọi trách
nhiệm và mọi tự do. Đặt những sự
thất bại, khiếm khuyết của chúng ta lên trách
nhiệm của xã hội của tính khí người khác
quả là có lợi! Trái lại, Đức
Giêsu đưa chúng ta về trách nhiệm của mình khi
nhắc lại rằng các ván bài không bao giờ
được chọn trước. Dù
quá khứ của chúng ta là gì, dù trước đó chúng ta
từ chối điều gì một sự thay đổi
là luôn luôn có thể. Đức Giêsu là
Đấng không bao giờ giam hãm một người nào
trong quá khứ, Đức Giêsu là Đấng cho mỗi
người cơ hội của mình, dù đó là người
tội lỗi nhất.
Như
thế chúng ta được mạc khải rằng Thiên
Chúa không nhìn chúng ta "đông cứng" nhưng
"đang trở thành".
Trong những khó
khăn hiện nay của chúng ta, Người nhìn thấy
con người mới có lẽ sắp được sinh
ra từ đó. Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa đặt
vào lòng chúng con niềm hy vọng ấy. Lạy Chúa, xin giúp
chúng con không làm đông cứng người khác, đừng
dán lên người khác một nhãn hiệu không thể thay
đổi, nhưng cho họ có cơ may đổi
mới. Tuy nhiên, chúng ta đã đoán ra
rằng Đức Giêsu có một ý tưởng khác trong trí
óc Người. Tại sao Người
đã mô tả đứa con thứ nhất ‘nói' tiếng
không, nhưng dầu sao nó đã vâng lời.
Ông đến gặp
người thứ hai và cũng bảo như vậy nó
đáp: “Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại
không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý
muốn của người cha?
Rõ ràng người
con thứ hai được nhấn mạnh. Sự tương phản nổi bật như ý
muốn. Và trong văn cảnh bút
chiến tranh cãi giữa Đức Giêsu và các quyền bính
tôn giáo tại Giêrusalem, Đức Giêsu nhắm đến
họ, những thượng tế và kỳ mục. Nhưng, NGÀY NAY vấn đề cũng
đặt ra cho chính chúng ta. Bạn
nghĩ gì về vấn đề đó? Người
nào trong hai người con đã làm theo ý
muốn của người cha?
Họ trả
lời: "Người thứ nhất”
Thật
vậy chúng ta không thể có câu trả lời khác. Những
lời nói đẹp mà thôi không đủ. Chính những hành động của chúng ta mới
đáng kể chớ không phải ý định của chúng
ta. Dưới góc độ này, Đức Giêsu
rất hợp với thời đại: Thế giới
ngày nay thán phục tính hiệu quả. Người ta nghi
ngờ những người nói hay -những kẻ
đại ngôn- chỉ làm cho chúng ta say sưa bởi
những lời tuyên bố trống rỗng. Nhưng
ý thức hệ lý thuyết đều mất hết
tốc độ. Người ta phán
đoán những lời hứa dựa vào những kết
quả có thực.
Nhưng
chúng ta chớ phán xét những người khác. Người con
thứ hai này thường rất giống chúng ta. Chúng ta cũng tiền hậu bất nhất.
Ví dụ như chúng ta cho rằng mình là
những ‘tín hữu' nhưng ‘không hành đạo’.
Chúng ta nói theo Thiên Chúa bằng môi
miệng nhưng không theo bằng hành động.
Hoặc giả, chúng
ta sang sảng hát kinh Tin Kính ở nhà thờ, những
suốt tuần lễ thì làm ngược lại. Biết
bao lần chúng ta đã nói với Thiên Chúa: "Nước
Cha trị đến, ý Cha thể hiện…" mà thái
độ của chúng ta có tương ứng với
những lời tuyên bố cao đẹp ấy không?
Nhưng chúng ta đã được cảnh báo:
"nói" không quan trọng bằng "làm". Người ta không đánh lừa được
Thiên Chúa. Không phải bất cứ ai thưa với
Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa là được vào
Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành
ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên
trời" (Mt 7,21). Và thánh Gioan diễn
tả: "Chúng ta đừng yêu thương nơi
đầu môi chót lưỡi nhưng phải yêu
thương cách chân thật và bằng việc làm"
(1Gioan 3,18).
Đức Giêsu nói
với họ: "Tôi bảo thật các ông những
người thu thuế và những cô gái điếm vào
Nước Thiên Chúa trước các ông".
Đức
Giêsu dẫn vào kết luận bằng một công thức
long trọng. "Tôi bảo thật các ông!".
Khi Đức Giêsu sử dụng công thức
này, luôn luôn Người muốn loan báo một điều
gì rất quan trọng. Vả lại
ở đây, quan điểm của Người làm ta kinh
ngạc và gần như gây vấp ngã.
Bằng
cách nào?
Bằng cách cho chúng ta một ví dụ về
‘những người tội lỗi chuyên nghiệp’,
những người tội lỗi bởi tình trạng
đời sống, những người tội lỗi
công khai chăng? những
người thu thuế là những người thỏa
hiệp với tiền bạc? Những cô gái
điếm là những người thỏa hiệp về
xác thịt?
Tuy nhiên, thật
tệ hại khi tưởng tượng rằng
Đức Giêsu biện minh cho ‘lợi lộc’ mà ‘tình
dục sai lệch’ đem lại. Câu tuyên bố nghịch nhĩ này cũng như dụ ngôn nói trên
của Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến
sự hoán cải.
Tội lỗi
tệ hại nhất chính là lòng tự mãn: không cần
đến Thiên Chúa! bất chấp
đến Người. Và chúng ta biết rằng vào
thời của Đức Giêsu những người tin
rằng mình ‘công chính’ quả thật đã không cần
ơn cứu độ mà Đức Giêsu đem lại cho
họ. Nhưng những người tội
lỗi, đàn ông có, đàn bà có, đã chạy đến
cùng Chúa Giêsu như đến Cứu Chúa của họ.
Nhà văn Péguy đã
diễn tả một cách tài tình khía cạnh ấy của
tội lỗi, vốn là một điều xấu tự
bản chất trở thành một điểm hút thấm
đối với ân sủng.
"Người ta đã thấy ân
sủng xâm nhập vào một linh hồn bại hoại, và
người ta thấy ân sủng cứu sống ‘những
gì đã bị hư mất’. Nhưng
người ta không thấy nó xuyên qua cái gì không "thấm
nước". Những con người tử
tế lương thiện hoặc sau cùng những con
người mang danh như thế mà tấm áo giáp của
họ không có chỗ khiếm khuyết. Bởi
vì họ không thiếu sót gì, người ta không mang lại
cho họ điều gì".
Phải chăng
như những người tội lỗi mà Đức
Giêsu đề cập tôi biết chuyển những tội
lỗi của tôi thành cơ hội mầu nhiệm
để mong ước ân sủng
cứu thoát tôi khỏi những giới hạn của mình?
Phải chăng tôi
hay xét đoán bề ngoài những con người sa đọa nhất, thay vì cho họ cơ
hội chưa từng có, theo đường lối
của Tin Mừng. "Những kẻ tội lỗi công
khai sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông". Đức Giêsu nói về hạng người nào?
Người nói với ai bằng "các
ông"? Những hạng người tin
rằng mình công chính và bị gạt khỏi Nước
Thiên Chúa là ai? Đôi khi tôi có thuộc vào
hạng người đó không?
Lạy Chúa, xin hãy
thương xót chúng con!
Vì ông Gioan Tẩy
Giả đã đến chỉ đường công chính cho
các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm
lại tin.
Trong lúc dụ ngôn
"hai người con" nhấn mạnh đến
sự tương phản giữa “nói" và ‘làm’ ‘giữa
nói "có" trên môi miệng và nói “không” trong hành
động’; kết luận này nhấn mạnh sự
tương phản giữa ‘tin’ và ‘không tin’. Câu
này có trong Tin Mừng Thánh Luca trong một văn cảnh khác
(Lc 7, 29-30). Đã hẳn Matthêu đã thay đổi
chút ít để đặt câu ấy ở đây
để đáp lại câu hỏi mà Đức Giêsu đã
đặt ra ở trước bài Tin Mừng này:
"Vậy, phép rửa của ông Gioan do đâu mà có? Do
trời hay do người ta?" (Mt 21,25).
Một
lần nữa, qua những người đồng
thời của Đức Giêsu, chính chúng ta được
tra hỏi. Dù qua lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả
hay lời rao giảng của Đức Giêsu, thì lúc nào
cũng chính là Thiên Chúa yêu cầu chúng ta nói tiếng ‘vâng’
bằng một đức tin ‘sống động’. Và tiếng ‘vâng’ ấy của đức tin
thường là một ‘sự hoán cải, một sự
đổi mới cuộc đời’.
Phần các ông, khi
đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu
hối hận mà tin ông ấy.
Đức
tin trong Tin Mừng trước tiên không phải là sự
liên kết với các chân lý phải tin bằng trí tuệ. Đúng ra đó là
sự liên kết ý muốn của mình với ý muốn
của Thiên Chúa kêu gọi chúng ta: "Hôm nay con hãy vào làm
việc trong vườn nho của Thầy!".
Hoặc là người ta đáp ứng
với lời kêu gọi ấy của Thiên Chúa, hoặc là
qua những sự kiện cụ thể, người ta
không đáp ứng lại. Có một từ nhỏ mà
quan trọng trong đức tin Kitô giáo chúng ta, một
từ không được dịch ra bất cứ ngôn
ngữ phụng vụ nào và chung cho mọi tín hữu,
đó là từ Amen có ý nghĩa chính xác là “xin vâng bằng các
hành động" mà chúng ta phải nói với Thiên Chúa:
“Amen, vâng, đúng vậy, tôi tin, chắc chắn là như
thế, tôi trở về, tôi chấp nhận điều
đó cho cuộc sống mỗi ngày của tôi". Mỗi Chúa nhật, miệng chúng ta đọc bao
nhiêu tiếng Amen? Và chúng ta đưa vào thực hành
trong tuần lễ tiếp theo bao nhiêu
lần?
Vì
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã không vừa là có
vừa là không, Người chỉ toàn là có. Vì thế cũng
nhờ Người mà chúng ta hô lên Amen để tôn vinh Thiên
Chúa (lCr 1,19).
|