Tất cả đều lãnh
mỗi người một đồng
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm
nay chúng ta bắt đầu chu kỳ ba dụ ngôn về
vườn nho của Chúa Giêsu. Chúa nhật 25, những
người thợ sẽ vào làm vườn nho. Chúa
nhật 26, hai người con trai được cha sai
đi làm vườn nho, và Chúa nhật 27, những
người tá điền muốn giết con ông chủ
vườn nho.
Bước
vào trong sự thân tình của Chúa
Trong
Kinh Thánh, cây nho có một ý nghĩa sâu sắc. Nó là biểu
tượng của giao ước giữa Thiên Chúa với
dân Ngài (Is 5, 1-7; Gr 2, 21; Ez 15, 4). Câu "hãy đi làm
vườn nho ta" (Mt 20, 4) được Chúa Giêsu
lặp đi lặp lại trong ba dụ ngôn, theo truyền
thống câu này muốn nói: "Hãy đi vào trong Giao
ước…Hãy đến chia sẻ Giao ước với
ta".
Chúa
Giêsu tự khẳng định mình là cây nho: "Thầy là
cây nho thật" (Ga 15, 1-5). Chúng ta được mời
gọi vào làm vườn nho của Chúa, được
sẻ chia công việc với Chúa, có ý nói, chúng ta dù sớm
hay muộn cũng bước vào trong thân tình với Chúa,
sống với Chúa. "Hãy đi làm vườn nho ta"
còn có nghĩa là "Hãy vào hưởng niềm vui của
chủ ngươi" (Mt 25, 21). Từ đây chúng ta
mới hiểu được một đồng mà ông
chủ trả cho người đến trước
cũng như người đến sau là đồng nào.
Đồng
lương yêu thương
Dụ
ngôn những người làm thuê được mướn
làm việc trong vườn nho qua những giờ khác nhau,
tất cả lãnh lương giống như nhau là một
đồng bạc, đã gây nên một khó khăn cho
những người đọc Tin Mừng. Chúa nói với
những người làm công: "Các ngươi cũng hãy
đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các
ngươi xứng đáng" (Mt 20, 4). Có người
hỏi: Xứng đáng ở đây là xứng với cái
gì? Khi có hai cái bằng nhau, hoặc cái này xứng với cái
kia được coi là xứng đáng. Vậy đâu là
tiêu chuẩn để Chúa Giêsu trả công xứng đáng?
Nhiều người không khỏi ngạc nhiên, nhất là
những người đến làm việc trước
hết vì tiêu chuẩn trả công của ông chủ. Cách hành
xử của ông chủ có chấp nhận được
không? Không xúc phạm đến nguyên tắc đền bù
xứng đáng sao?
Khó
khăn phát xuất từ một sự sai lầm. Vấn
đề đền bù được qui chiếu về
sự đời đời, Thiên Chúa "sẽ
thưởng phạt mỗi người tùy theo việc
họ làm" (Rm 2, 6). Thiên Chúa nhân lành, Ngài có cách tính không
giống chúng ta: "Tư tưởng Ta không phải là
tư tưởng các ngươi, và đường
lối các ngươi không phải là đường
lối của Ta" (Is 55, 8). Thiên Chúa ban cho con
người cái mà Ngài cho là tốt nhất. Tiêu chuẩn
của Ngài là tấm lòng, tiêu chuẩn của chúng ta
thường là lý trí, và dĩ nhiên không luôn luôn đúng.
Trong
dụ ngôn, mức lương được trả là
một đồng. Đây là đồng đracmơ; hay
đồng đờ-nhê, là thuế mà mỗi Người
Do Thái phải nộp vào Đền Thờ Giêrusalem mỗi
năm cho việc bảo trì, hoặc đồng
"xtate" tiền cổ Hy-lạp là đồng
được thánh Phêrô dùng để nộp thuế
Đền thờ, phần của ngài và của Chúa Giêsu.
Mỗi người nhận được một
đồng, có ý nói đến mức lương của một
ngày làm việc, một cái gì đó để sống trong
ngày như bánh mì chẳng hạn.
Để
nhận ra "điểm
chính" trong dụ ngôn, chúng ta phải để ý
đến qui chiếu của Chúa Giêsu ở đây về
một tình huống cụ thể. Đồng bạc duy
nhất được trả cho tất cả là
nước Chúa, Chúa Giêsu đã mang xuống thế vì yêu
thương thế gian. Dụ ngôn bắt đầu:
"Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng
sớm ra thuê người làm vườn nho mình" (Mt 20,
1). Như vậy, Nước Trời là chủ đề
chính và là bối cảnh của dụ ngôn.
Đồng
lương ơn cứu độ phổ quát
Một
lần nữa, vấn đề về ơn cứu
độ của người Do thái và dân ngoại, hay
của kẻ lành và những người tội lỗi
được đặt ra, trước ơn cứu
rỗi do Chúa Giêsu mang đến. Mặc dầu chỉ vì
nghe huấn giáo của Chúa Giêsu mà người dân ngoại
(những kẻ tội lỗi, những người thu
thuế, những người đĩ điếm, v.v.) quyết
định theo Chúa, trong khi trước lúc đó họ còn
đứng đàng xa (nhàn rỗi). Vì ý định theo Chúa
mà họ sẽ không có chỗ bậc hai trong vương
quốc. Họ cũng sẽ ngồi cùng một bàn như
những người khác và hưởng đầy
đủ những của cải thời cứu thế.
Chúa
Giêsu không cung cấp chúng ta một bài học về
đạo đức xã hội, nhưng là bài học
về tình yêu của Thiên Chúa với hết mọi
người: "Từ sáng sớm, cho đến giờ
thứ ba, giờ thứ sáu và thứ chín".
Không
có ai là quá muộn để vào Nước Trời. Tất
cả những ai chưa khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa
vẫn được Ngài mời gọi mọi
người nam nữ trong mọi giờ và ở mọi
lứa tuổi đi làm vườn nho của Chúa! Đây
là lời kêu gọi phổ quát. Đó là vấn đề
kêu gọi hơn là vấn đề thưởng. Chúng ta
đừng bao giờ thất vọng về ơn cứu
độ đời đời của chúng ta.
Có
nhiều người cần cù, chịu khó, luôn sẵn sàng
làm việc nhưng "không ai thuê"; họ nhàn rỗi vì
thiếu việc làm và không có người mướn, lòng
nhiệt thành đang có sẵn, có tiếng gọi thuê,
họ lên đường mà không có sự mặc cả giá
tiền như những người trước. Ông
chủ đánh giá công việc của họ cách khôn ngoan và
trả công cho họ bằng những người khác. Ý
muốn nói, dù hoán cải vào "buổi sáng, giờ
thứ ba … và thứ mười một giờ" đi
chăng nữa, thì hết thảy mọi người
đều được đón nhận … anh trộm lành
được lên Thiên đàng "vào giờ thứ mười
một" anh thực sự là người
được mời gọi vào giờ sau hết và
trở thành người đầu tiền vào Nước
Trời: "Thật hôm nay, anh sẽ được ở
với tôi trên thiên đàng với ta" (Lc 23, 43). Chúa không
kết án kẻ trộm, Chúa bày tỏ lòng nhân lành của
mình; họ đi làm, nhưng "không ai thuê" (Mt 20, 7),
nếu người ta không thuê anh, anh "hãy đi làm
vườn nho ta" (Mt 20, 4).
Điều
mà chúng ta gán cho Thiên Chúa là không xứng đáng với Thiên
Chúa, và điều Thiên Chúa ban cho chúng ta vượt quá công
trạng của chúng ta: "từ người đến
sau hết tới người đến trước
hết đều lãnh mỗi người một
đồng". Chúng ta không thể trách lòng tốt của
ông chủ, vì không thấy gì sai trái trong cách ông hành xử.
Ông trả cho mỗi người theo như thỏa
thuận và thể hiện lòng thương xót như ông
muốn: "Nào tôi chẳng được phép làm như ý
tôi muốn sao?"
Một
huấn giáo khác có thể rút ra từ dụ ngôn. Ông chủ
biết rằng những người làm thuê giờ
cuối cũng có những nhu cầu như bao người
khác, họ cũng có con cái phải nuôi ăn, như
những nguời làm thuê giờ thứ nhất. Khi trả
cho mọi người đồng lương y nhau, ông
chủ chứng tỏ rằng ông không xét theo công trạng
cho bằng theo nhu cầu. Ông chứng tỏ rằng ông
không những công bằng, mà còn "tốt lành",
quảng đại và nhân đạo.
|