Vì tôi tốt bụng
– Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu
có từ chối lời mời của Đức Giêsu, ông
Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
-
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ
được gì?”
Thầy Giêsu đã
đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
-
Họ sẽ được xét xử
các chi tộc Israel, được
gấp trăm về mọi sự, và nhất là
được hưởng sự sống đời
đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở
đây Nước Trời được coi như một
phần thưởng, một sự trả công Chúa dành cho
những ai dám từ bỏ hy sinh. Các môn
đệ cho đi, và rồi họ sẽ được
lại.
Bài Tin Mừng hôm nay
nằm ngay sau câu chuyện trên. Dưới một góc độ nào
đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về
Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải
chỉ là Đấng công bằng, thưởng công cho
những gì chúng ta đã vất vả cố gắng. Người
còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng
xót thương.
Dụ ngôn về
“người thợ giờ thứ mười một” cho
thấy điều đó. Thật ra phải gọi
dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ
lượng”. Trong thế giới thời Đức
Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và
trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật
(Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công
nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm
đủ để nuôi gia đình ở mức căn
bản. Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác
thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ
vườn nho tự mình ra chợ mướn
người, thay vì viên quản lý. Những
người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ
(c.6) lại không được ông chủ thấy và
mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều
lần. Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới
được thuê với tiền công rõ ràng, còn ba nhóm sau
chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ
công bằng” (c.4). Cuối cùng ba nhóm giữa
bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm
đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở
nên hết sức khác thường với việc ông chủ
ra lệnh trả công cho người làm cuối
trước. Những người thợ
giờ thứ mười một (5 giờ chiều) cả
ngày làm có một tiếng, được trả một
quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm
hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm, “đã
làm việc nặng nhọc cả ngày, lại
bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt
cuộc những người thợ đầu tiên cũng
chỉ được một quan tiền. Chúng ta
cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để
xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn
bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta
cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện
như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng
giận dữ của người anh cả khi biết cha
mình đã tiếp đón linh đình sự trở về
của đứa con hư hỏng.
Đối với
những người thợ, đây rõ ràng là một sự
bất công. Bất công nằm ở chỗ
làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ
không cho đây là một sự bất công, vì ông đã
trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như
đã thỏa thuận.
Những câu cuối
của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những
câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi
muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c.
14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho
anh, tôi muốn họ bằng anh: đó là ước
muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa. Tình
thương của Người phá vỡ sự phân
biệt người đầu, người cuối, người
làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít. “Chẳng
lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có
quyền rộng rãi thi ân cho kẻ
Người muốn. Chẳng ai có thể bắt
Người phải đối xử công bình theo kiểu con người. Chẳng
ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá
sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của
anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15). Con mắt xấu xa
là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không
đáng, ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất
ngờ của người khác.
Đức Giêsu
khẳng định mình là người tốt lành, đặc
biệt trong cách cư xử của Người
đối với những tội nhân. Anh
trộm lành trên thập giá cũng là người thợ
giờ thứ mười một. Anh
được hưởng những gì mà người khác
phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn
đề không phải là đáng hay không đáng. Chẳng
ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả
các thánh. Hạnh phúc Nước Trời là một
ơn ban hơn là một sự trả công hay phần
thưởng.
Thiên Chúa vượt
lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con
người. Người không phải là nhà
buôn, nhưng là người cha tốt lành. Cha
thương cả hai con, cả đứa ở nhà
phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi
đời. Thậm chí đứa hư hỏng hay tật
nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ
vườn nho thương cả những người đứng
ngoài chợ suốt ngày mà không được ai
mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém may
mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ
giờ thứ mười một đã làm được
gì cho vườn nho của ông chủ? Chắc
chẳng được bao nhiêu. Nhưng
anh ấy đã đứng chờ suốt ngày. Thế giới này lúc nào cũng có những
người thợ giờ thứ mười một, “những
người không được ai mướn” (c.7), những
người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt
ngày, suốt đời, những người
được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ
được trả lương ra sao. chỉ biết phó thác cho lòng tốt của
ông chủ.
Những
người này khác với những người làm từ
sáng, biết chắc mình sẽ được trả công
một quan tiền. Dụ ngôn không nói
đến việc người làm cuối reo lên vì
được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là
đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những
tiếng reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán
phục, tri ân… Chẳng có ai vào thiên đàng mà
lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công
đức của mình chỉ là chuyện nhỏ, quá
nhỏ để có thể mua được một vé vào
thiên đàng.
Người ta
cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của
những người mà ta tưởng chẳng bao giờ
có thể lên thiên đàng được. Thiên
Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong
vườn nho. Người còn thấy
cả thời gian chờ. Nhiều khi
chờ còn mệt hơn làm việc. Đừng
cằn nhằn! hãy vui với niềm vui
của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy
người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với
những người được Chúa yêu, bất
chấp quá khứ của họ. Chúng ta không có
quyền buồn như người con cả, khi cha
đang vui. Hãy đổi cái nhìn của mình
về Thiên Chúa. Như thế chúng ta
cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên
đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe
được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện
diện
và hoạt động
trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy
lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng
trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông
và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời
con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con
đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được
cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
|