Tự do Thiên Chúa
Dụ
ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa
tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối
thượng.
1) Đây là sự tự
do của chủ vườn nho: Ông
đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi
những ai ông muốn, sau khi đã quyết định
phần thưởng và phân công.
Thiên
Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu
gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền
trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là
nói đến tự do. Giáo hội là một cộng
đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật
lại được nghe thấy tiếng gọi ân
sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất
bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại
nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh
sứ thần cầm gươm canh cửa vườn
địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như
thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ
thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng
tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái
Thiên Chúa.
Thiên
Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta
thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành
động của Thiên Chúa với người thợ
gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm
thường hay quí giá. Người thợ hoàn toàn tự
do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài
muốn: Người thì được gọi từ trong
lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác
được gọi từ buổi thiếu thời,
người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên
Chúa quyết định thời gian.
Thiên
Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức
Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt
lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không
muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo
từng người. Người thì được
gọi vào giờ đau khổ để được
cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để
nên thánh. Người thì được gọi cứu linh
hồn mình. Kẻ khác được gọi để
cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là
các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ
mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị
lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng
phong trào canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên
Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công
nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính
Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối
của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ
được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất
cả những tính toán, những dự liệu pháp lý,
những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan
biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các
tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết
điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ
đã không được gọi, họ đã sống
cuộc đời vô nghĩa giống như các ngư
phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau
khi đã được gọi làm môn đệ, họ
cũng chỉ như những người vô danh khác,
nếu Đức Kitô không phân biệt họ khỏi
những người khác. Trong số các môn đệ, Simon
đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh
hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ
trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ
sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn
gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ
tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là
đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã
đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không
ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba
lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông
quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa
cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử
mười hai chi họ Israel. Đó là phần
thưởng đổi lại lấy những gì họ
đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn
huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý
thức về những ân huệ đã nhận
được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười hai
tông đồ và những ai sống giữa cộng
đồng được lựa chọn, đã thụ
hưởng một ơn gọi đặc biệt, là
phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không
ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có
một giá trị giáo huấn nữa. Thiên
Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân
hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không
được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì
thấy ta tốt ư?”.
Thiên
Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi
tất cả mọi người. Trước kia chỉ
có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé
và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng
được loan báo cho tất cả các tạo vật,
tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ
Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ
được gọi đúng như lời Thánh Phaolô
dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người
phạm tội để có thể thương xót mọi
người”.
Lòng
thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi
người đều được mời gọi chung
hưởng. Suốt đời, con người
được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa. Được
nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ
trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa,
bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh
nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính
thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được
gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng
nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên
mới quyết giữ ơn gọi được miên
trường. Ơn gọi không phải là một dịp
tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu
người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên
Chúa theo dõi con người không ngừng và con người có
thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như
thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con
người mới hiểu được sự cao
trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể
xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử
dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể
hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính
toán. Đến lượt con người họ cũng
không được tỏ ra là người ganh tị hay ti
tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của
Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận
được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải
ý thức điều đó để hoan hỉ trao ban
những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn
đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực
cả ngày mà không nhận được vào nước
Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô, những thử
thách này là một đặc ân chứ chưa phải là
một việc đền tội, một ơn huệ
hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội
để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên. Vì
ta đã được gọi từ sớm để làm
việc nhiều hơn. Con người phải từ
bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết
suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức
độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính
toán. Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ
tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ
ngôn này có một giá trị đặc biệt để
giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này
dạy ta phải hiểu biết cách hành động
của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu
của Ngài.
|