THỎA
THUẬN
Trong
cuộc sống có nhiều dạng thỏa
thuận – dù bằng lời nói hoặc
bằng văn bản (chữ “thỏa hiệp”
thường dùng cho dạng không tốt),
sự thỏa thuận với nhau về một
điều gì đó gọi là hợp
đồng – nhất là trong chuyện làm
ăn. Về tâm linh cũng có dạng thỏa
thuận: dạng tốt là thỏa thuận về
việc làm vườn nho (Mt 20:1-16) mà Tin
Mừng hôm nay đề cập, dạng xấu
là “thỏa hiệp cám dỗ” của
ma quỷ (với bà Eva, hoặc khi chúng ta
phạm tội). Các dạng “hợp đồng
ngầm” với ma quỷ đều rất
nguy hiểm.
Chúa
Giêsu xác định: “Cha
tôi vẫn làm việc thì tôi cũng
làm việc”
(Ga 5:17). Chúa Cha và Chúa Con đều
làm việc không ngừng, Chúa Thánh
Thần cũng vẫn không ngừng tác
động trong Giáo Hội. Như vậy, chắc
chắn sự lao động có giá trị
cao. Và tất nhiên chúng ta không thể
lười biếng mà không chịu lao
động.
Ai
cũng phải lao động, bằng cách này
hay cách khác, nhỏ làm việc nhỏ,
lớn làm việc lớn, nhưng phải lao
động chân chính chứ không thể
lao động phi pháp. Lao động chân
chính là dùng sức mình để
làm việc có mục đích (tốt)
và có ý thức. Lao động không
chỉ là cách mưu sinh mà còn là
cách trau giồi (dồi) sức khỏe, đặc
biệt là tránh dịp tội, bởi vì
“nhàn cư vi bất thiện”, vì
rảnh quá hóa nông nổi, và vì
nông nổi mà thành nông nỗi. Lao
động chân tay hoặc lao động trí
óc đều cần thiết, đều có
giá trị nhất định, không ai hơn
ai. Chỉ có lòng người xấu chứ
không có nghề nào xấu. Vấn đề
là có chịu làm việc hay không,
chứ làm việc gì cũng là tiếp
tục hoàn thiện công trình sáng
tạo của Thiên Chúa – tất nhiên
công việc đó hợp pháp chứ
không phi pháp.
Phải
công tâm mà công nhận rằng những
người chịu thương chịu khó,
siêng năng lao động là người
có bản lĩnh, biết tự trọng, không
ỷ lại vào người khác, không
ích kỷ, không lợi dụng người
khác. Đó là một dạng phục
vụ, và cũng là một cách giúp
đỡ người khác. Còn đối
với những người lười biếng
thì sao? Tất nhiên là đối lập
với các đức tính của người
lao động cần mẫn. Thánh Phaolô
không hề úp mở mà nói thẳng
luôn: “Ai
không chịu làm thì cũng đừng
ăn” (2
Tx 3:10).
Vào
dịp kỷ niệm 90 năm ban hành Thông
điệp “Rerum Novarum” (Tân Sự –
ban hành ngày 15-5-1891) của Đức Lêô
XIII (1810-1903), Đức Gioan Phaolô II (1920-2005) đã
có Thông điệp “Laborem Exercens”
(Lao Động của Con Người), ban hành
ngày 14-9-1981, nói về Tin Mừng trong sự
lao động, trong công việc. Điều đó
cho thấy sự lao động là hoạt động
quan trọng, cả thể lý và tâm
linh. Thật vậy, Thiên Chúa đã
dạy chúng ta qua cách hoạt động
của Ngài: Lao động 6 ngày, chỉ
nghỉ 1 ngày cuối tuần (x. St 1:1-31 –
2:1-3).
Trong
khi lao động, con người tự hoàn
thiện chính mình trên hành trình
đi tìm Chân-Thiện-Mỹ, đó là
hành trình đi tìm Thiên Chúa,
vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng
chí thiện: “Không
có ai nhân lành cả, trừ một
mình Thiên Chúa”
(Mc 10:18). Thật vậy, ngôn sứ Êdêkien
đã chân thành nhắn nhủ: “Hãy
tìm Đức Chúa khi Người còn
cho gặp, kêu cầu Người lúc Người
ở kề bên”
(Is 55:6). Thiên Chúa còn cho phép chúng
ta gặp khi Ngài ở gần, đến lúc
Ngài không cho gặp và đi xa thì
chúng ta vô phương. Đó là
thời gian Ngài còn thương xót,
và sẽ tới lúc hết giờ thương
xót. Chắc chắn như vậy!
Kinh
Thánh cho biết rõ rằng “ở dưới
bầu trời này, cái gì cũng chỉ
có một thời mà thôi” (x. Gv
3:1-8). Và còn hơn thế nữa: “Bất
cứ chuyện gì cũng đều có
thời có buổi, và đều bị
Thiên Chúa xét xử”
(Gv 8:6). Vì
thế, đừng lần lữa kẻo lỡ cơ
hội. Cơ hội tốt không đến hai
lần, thế nên hãy lắng nghe cho rõ:
“Kẻ
gian ác, hãy bỏ đường lối
mình đang theo, người bất lương,
hãy bỏ tư tưởng mình đang có
mà trở về với Đức Chúa, và
Người sẽ xót thương, về với
Thiên Chúa chúng ta, vì Người
sẽ rộng lòng tha thứ”
(Is 55:7). Nước đến chân thì không
thể nhảy kịp, và đừng quên
rằng “Giờ Thương Xót” cũng
đang dần thu ngắn lại, không ai có
thể biết sẽ kết thúc lúc nào!
Tuy
nhiên, đừng chần chừ, đừng
ngần ngại, và cũng đừng sợ
hãi, vì Thiên Chúa đã hứa:
“Khi
kêu đến Ta, Ta liền đáp lại,
lúc ngặt nghèo, có Ta ở kề
bên. Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự,
cho sống lâu, tuổi thọ dư đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban”
(Tv 91:15-16). Ngài không chỉ lắng nghe và
đáp lại, mà Ngài còn ban cho
chúng ta hơn cả điều chúng ta
mong đợi. Thật là trên cả tuyệt
vời, chắc chắn chẳng có thần
linh nào khác ngoài Thiên Chúa
chúng ta đang suy tôn thờ kính. Và
đúng như thế, vì Thiên Chúa
đã minh định rằng chỉ một
mình Ngài là Thiên Chúa và
cấm chúng ta thờ bất cứ thần nào
khác (x. Đnl 32:39; Is 43:10; Is 45:5-6; Is 46:9; Hs
13:4).
Là
phàm nhân, chúng ta không thể nào
hiểu hết lòng thương xót của
Thiên Chúa, ngay cả tình mẫu tử
của người mẹ trần gian mà chúng
ta còn chưa hiểu hết thì làm
sao có thể hiểu Thiên Chúa: “Thật
vậy, tư tưởng của Ta không phải
là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi
không phải là đường lối của
Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì
đường lối của Ta cũng cao hơn
đường lối các ngươi, và
tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư
tưởng các ngươi chừng ấy”
(Is 55:8-9).
Ngày
xưa, mỗi khi nói tới điều khác
lạ, người ta thường so sánh với
chuyện lên cung trăng hoặc Tết Công-gô,
tức là chuyện không thể xảy ra.
Thế mà ngày nay, người ta đã
có thể lên cung trăng, có thể
“lên trời”, thế nhưng đó
chỉ là một góc nhỏ của trời
mà thôi. Khoa học tiến bộ với
mức kinh ngạc, người ta đã và
đang tìm mọi cách để “khám
phá” bầu trời, nhưng càng khám
phá thì người ta càng thấy thăm
thẳm, còn biết bao “vị trí”
mà người ta không biết gọi là
gì, thế nên người ta đành
phải mô tả là “lỗ đen”
(black holes). Càng ngày khoa học lại phát
hiện thêm hành tinh mới. Cứ thế
và cứ thế, càng đi xa vào vũ
trụ càng thấy thăm thẳm mù mịt.
Có sẵn đó mà khám phá
mãi không hết!
Thiên
Chúa siêu hơn cả siêu việt, tuyệt
hơn cả trác tuyệt, hơn cả tuyệt
luân. Chúng ta chỉ còn biết cùng
với Thánh Vịnh gia mà xưng tụng
Thiên Chúa: “Ngày
lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và
ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.
Chúa thật cao cả, xứng muôn lời
ca tụng. Người cao cả khôn dò
khôn thấu”
(Tv 145:2-3). Càng tìm hiểu vũ trụ,
người ta càng nhận biết Thiên
Chúa. Càng tìm hiểu Thiên Chúa,
chúng ta càng kính thờ và tạ
ơn Thiên Chúa. Đó chính là
hành trình đức tin, là quá
trình lao động tâm linh.
Thật
lạ lùng, Thiên Chúa chí thánh,
là Đấng cao vời khôn ví, nhưng
Ngài lại giàu lòng xót thương
với mọi người, ai càng yếu thì
Ngài càng thương: “Chúa
là Đấng từ bi nhân hậu, Người
chậm giận và giàu tình thương.
Chúa nhân ái đối với mọi
người, tỏ lòng nhân hậu với
muôn loài Chúa đã dựng nên”
(Tv 145:8-9). Quả thật, Thánh Phaolô đã
dày dạn kinh nghiệm nên xác định:
“Ở
đâu tội lỗi đã lan tràn, ở
đó ân sủng càng chứa chan gấp
bội”
(Rm 5:20). Thế thì đừng nản chí
sờn lòng hoặc thất vọng – dù
là thất vọng về chính mình, mà
hãy vững lòng tin tưởng và mau
mắn đứng dậy ngay lập tức!
Ai
cũng biết rằng Thiên Chúa là
Đấng vô tiền khoáng hậu, vô
thủy vô chung, và yêu thương vô
hạn, nhưng Ngài cũng rất thẳng
thắn: “Chúa
công minh trong mọi đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc
Người làm. Chúa gần gũi tất
cả những ai cầu khẩn Chúa, mọi
kẻ thành tâm cầu khẩn Người”
(Tv 145:17-18). Vấn đề không phải là
tội nhiều hay tội ít, vì ai cũng
chỉ là tội nhân trước mặt
Thiên Chúa mà thôi, chẳng ai hơn
ai, nhưng vấn đề là có chân
thành sám hối hay không. Và đó
là điều Thiên Chúa mong đợi
ở chúng ta: “Ta
muốn lòng nhân chứ đâu cần
lễ tế. Vì Ta không đến để
kêu gọi người công chính, mà
để kêu gọi người tội lỗi”
(Mt
9:13). Ngài thực sự chỉ muốn tình
yêu chứ không muốn hy lễ (x. Hs 6:6).
Ước gì không ai trong chúng ta phải
nghe lời “nói nặng” này của
Thiên Chúa: “Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng
miệng, còn lòng chúng thì lại
xa Ta” (Mt
15:8; Mc 7:6).
Người
Pháp có câu châm ngôn khá độc
đáo: “Đừng
vì yêu mến Chúa mà chống đối
người khác”.
Vào thời Thánh Phaolô, có những
kẻ rao giảng về Đức Kitô chỉ
vì lòng GANH TỊ và TRANH CHẤP, nhưng
cũng có những người làm công
việc đó vì Ý NGAY LÀNH, họ
làm vì BÁC ÁI và BÊNH VỰC
TIN MỪNG. Lại có những người loan
báo Đức Kitô vì TÍNH ƯA
TRANH GIÀNH, KHÔNG CÓ LÒNG NGAY. Nhưng
Thánh Phaolô vẫn bảo là “không
sao”, chỉ cần Đức Kitô được
rao giảng. Thánh Phaolô mừng bởi vì
điều ấy sẽ giúp ngài đạt
được ơn cứu độ nhờ Thần
Khí của Đức Giêsu Kitô phù
trợ.
Và
rồi Thánh Phaolô kết luận: “Đó
là điều tôi đợi chờ và
hy vọng. Sẽ không có gì làm
cho tôi phải hổ thẹn, trái lại
tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ
cũng như mọi lúc, Đức Kitô sẽ
tỏ bày quyền uy cao cả của Người
nơi thân xác tôi, dù tôi sống
hay tôi chết: vì đối với tôi,
sống là Đức Kitô, và CHẾT
LÀ MỘT MỐI LỢI”
(Pl 1:20-21). Vậy là sao? Thánh Phaolô lý
giải: “Nếu
sống ở đời này mà công
việc của tôi được sinh hoa kết
quả thì tôi không biết phải chọn
đàng nào. Vì tôi bị GIẰNG
CO giữa hai đàng: ao ước của tôi
là ra đi để được ở với
Đức Kitô, điều này tốt hơn
bội phần: nhưng ở lại đời này
thì cần thiết hơn, vì anh em”
(Pl 1:22-24). Vấn đề cốt lõi là
miễn sao có lợi cho Thiên Chúa, mục
đích là để “tuân phục
Thánh Ý Chúa và vinh danh Chúa”
mà thôi. Và cũng vì thế mà
Thánh Augustinô đã tha thiết cầu
xin: “Lạy
Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết
con – Domine, noverim Te, noverim me”.
Biết Chúa là chân nhận rằng
Ngài là Đấng duy nhất và giàu
lòng thương xót, nhờ vậy mà
tôn thờ Ngài hết linh hồn và
hết sức lực, biết mình là ý
thức mình yếu đuối và đầy
tội lỗi để mà sống khiêm
nhường hơn.
Bát
Phúc (Tám Mối Phúc, Bài Giảng
Trên Núi) của Chúa Giêsu đã
gây ấn tượng đối với danh
nhân Mahatma Gandhi. Ông rất yêu quý,
ông Bát Phúc và gọi đó
là Bản Tuyên Ngôn Độc Lập
đầu tiên của nhân loại. Ông
có công giành độc lập cho Ấn
Độ bằng con đường bất bạo
động theo tinh thần của Đức Kitô,
ông cũng khiến chúng ta ngạc nhiên
khi ông thẳng thắn nói: “Tôi
YÊU MẾN Đức Kitô nhưng tôi
KHÔNG PHỤC các Kitô hữu”.
Tại sao vậy? Có lần ông vào một
nhà thờ Công giáo, ngoài cửa
có ghi: “Cấm
người da đen vào nhà thờ”.
Thấy vậy, ông quay ra ngay. Là Kitô
hữu, là môn đệ Chúa Giêsu
và là con cái Thiên Chúa, chúng
ta cảm thấy thật là xấu hổ, vì
chúng ta bảo người ta yêu thương
mà mình lại kỳ thị người
khác, chỉ lẻo mép nói hay mà
không thi hành điều mình nói.
Nước Chúa chưa rộng mở có
lỗi của mỗi chúng ta. Đúng là
lỗi tại tôi mọi đàng!
Đối
với cộng đoàn Phi-líp, Thánh
Phaolô nhắn nhủ: “Chỉ
có một điều là anh em PHẢI ăn
ở làm sao cho XỨNG với Tin Mừng của
Đức Kitô. Như thế, dù tôi có
đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa,
tôi vẫn muốn được nghe người
ta nói về anh em là anh em luôn đứng
vững, cùng chung MỘT tinh thần, MỘT
lòng MỘT dạ cùng nhau chiến đấu
vì đức tin mà Tin Mừng mang lại
cho anh em”
(Pl 1:27). Và chắc chắn đó cũng
là lời khuyên dành cho mỗi chúng
ta hôm nay, chẳng loại trừ một người
nào!
Trên
hành trình tâm linh, hành trình đức
tin, ai cũng là người lao động, là
công nhân hoặc người thợ, hoàn
toàn giống nhau và bình đẳng,
hằng ngày làm việc theo sự thỏa
thuận của “bản hợp đồng đức
tin”, đó là làm việc trong
“vườn nho” của Thiên Chúa
với MỨC LƯƠNG NHƯ NHAU – đối
với công nhân thâm niên cũng như
tân binh. Tuy nhiên, điều cần phải
luôn lưu ý là đừng so đo
hoặc ganh tị để rồi liếc xéo
nhau, nhìn nhau bằng nửa con mắt hoặc
ngó nhau bằng “ánh mắt hình
mũi tên”.
Một
hôm, sau khi nói về phần thưởng
dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Ngài,
Đức Giêsu kết luận: “Nhiều
kẻ đứng đầu sẽ phải xuống
hàng chót, và nhiều kẻ đứng
chót sẽ được lên hàng đầu”
(Mt 19:30; Mc 10:31; và Mt 20:16 cũng đề cập
ý này). Một câu nói thật đáng
để chúng ta “quan ngại” lắm!
Rồi Ngài kể câu chuyện này:
Nước Trời giống như chuyện gia chủ
kia, vừa tảng sáng đã ra mướn
thợ vào làm việc trong vườn nho
của mình. Sau khi đã thoả thuận
với thợ là mỗi ngày một quan
tiền, ông sai họ vào vườn nho làm
việc. Khoảng giờ thứ ba, giờ thứ
sáu, giờ thứ chín, rồi giờ mười
một, ông trở ra và thấy có
những người khác ở không, đang
đứng ngoài chợ. Với ai ông cũng
bảo: “Hãy
đi vào vườn nho, tôi sẽ trả
cho các anh HỢP LẼ CÔNG BẰNG”
(Mt 20:4).
Khi
hoàng hôn buông xuống, nghĩa là
hết giờ lao động, ông chủ vườn
nho bảo người quản lý gọi tất
cả thợ lại mà trả công cho họ,
bắt đầu từ những người vào
làm sau chót tới những người vào
làm trước nhất. Những người
mới vào làm lúc giờ mười
một tiến lại và lãnh được
mỗi người MỘT QUAN TIỀN. Khi đến
lượt những người vào làm
trước nhất, họ tưởng sẽ được
lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ
lãnh được mỗi người MỘT
QUAN TIỀN. Họ vừa lãnh vừa cằn
nhằn ông chủ bất công, họ so kè
việc họ đã phải làm việc
nặng nhọc cả ngày, nắng nôi
thiêu đốt, thế mà chẳng hơn
gì người vào làm muộn.
Rất
bình tĩnh và thản nhiên, ông chủ
trả lời với họ: “Này
bạn, tôi đâu có xử bất công
với bạn. Bạn đã chẳng THOẢ
THUẬN với tôi là MỘT QUAN TIỀN
sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi
đi. Còn tôi, tôi muốn cho người
vào làm sau chót này cũng được
bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi
lại không có quyền tuỳ ý định
đoạt về những gì là của
tôi sao? Hay vì thấy tôi TỐT BỤNG
mà bạn đâm ra GHEN TỨC?”
(Mt 20:13-15). Trong cuộc sống, ngay cả trong vấn
đề tâm linh và bác ái, chúng
ta cũng vẫn thường so đo đủ
thứ, cứ tưởng chỉ có mình
làm được công kia hay việc nọ,
ý muốn nói mình “nổi trội”
hơn người khác, muốn người
khác phải “nể phục” mình.
Và nếu Chúa Giêsu đặt vấn
đề như vậy với chúng ta về
vấn đề này, chắc chắn chúng
ta “há miệng mắc quai nón”,
phải câm họng mà thôi. Dụ ngôn
“người Pharisêu và người thu
thuế” (Lc 18:9-14) không bao giờ cũ, lúc
nào cũng mang tính thời sự nóng
bỏng!
Người
ta thường nói rằng “người
dốt thích nói chữ”. Thế nhưng
họ càng nói lại càng dở, càng
lý luận lại càng đuối lý.
Chúa Giêsu biết họ đuối lý
nên mới im như thóc thối, Ngài
lặp lại và nhấn mạnh: “Thế
là những kẻ đứng chót sẽ
được lên hàng đầu, còn
những kẻ đứng đầu sẽ phải
xuống hàng chót. Vì kẻ được
gọi thì nhiều, mà người được
chọn thì ít”
(Mt 20:16). Nói chung, chẳng qua là hội
chứng ảo tưởng, và rồi không
khéo thì công sức lao động trở
thành công cốc. Thế thì tiêu!
Như
một điệp khúc vô tận, Chúa
Giêsu đã và đang không ngừng
mời gọi mọi người tin nhận Ngài
là Đấng Cứu Độ để được
sống đời đời, nhưng chỉ ít
người được chọn. Động từ
“chọn” ở đây không có
nghĩa là “thích ai thì chọn”,
mà “chọn” ở đây là
tùy vào quyết định riêng của
chính người-được-mời-gọi,
bởi vì Thiên Chúa trao ban
quyền-tự-do-trọn-vẹn. Sự tự do
này là chính Thiên Chúa ban cho
chúng ta, nhưng có thể có lợi
hoặc bất lợi cho chúng ta, điều
đó tùy vào ý muốn của
mỗi người, và Thiên Chúa hoàn
toàn tôn trọng quyền tự do này.
Nếu
thực sự như vậy, phải chăng không
có nhiều người được trở
thành công dân của Nước Trời?
Rất có thể, và đó là lỗi
của chúng ta chứ Thiên Chúa luôn
mong muốn mọi người đều được
hưởng phúc trường sinh với Ngài,
không muốn bất cứ một ai phải hư
mất. Cũng có mối nguy cơ là vì
chúng ta ỷ lại, tự cho mình là
“ngon lành” hơn hẳn những người
khác, nhận mình là đạo đức,
thánh thiện và công chính, để
rồi “liếc ngang liếc dọc” với
những tia mắt “sắc hơn dao cau”,
và cho rằng người nọ người
kia là những kẻ tội lỗi, nào
ngờ họ lại có Visa Nước Trời
trước chúng ta (x. Mt 21:31-32). Ôi, không
cái khốn nào bằng cái khốn
này!
Thời
Cựu Ước, ông Bơ-li-am đã tâm
nguyện thế này: “Ước
chi tôi được chết cái chết
của người công chính, và tôi
được mãn phần như họ”
(Ds 23:10). Mong sao mỗi chúng ta cũng biết
mơ ước như vậy để có thể
hoàn thiện trước phút lâm chung.
Đó cũng là cách chứng tỏ
rằng chúng ta hoàn tất điều thỏa
thuận với Thầy Giêsu chí thánh:
HOÀN THIỆN và NHÂN TỪ (Mt 5:48 và
Lc 6:36).
Lạy
Thiên Chúa từ bi nhân hậu, Đấng
duy nhất mà con tin kính và tôn thờ,
xin giúp con biết miệt mài chuyên cần
sống Đức Tin sống động, luôn
biết khiêm nhường, hết lòng yêu
thương, và chân thành tha thứ hết
lòng theo lệnh truyền của Đức
Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài. Con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô,
Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|