Anh em tha thứ cho
nhau - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Nếu bạn chợt nhận ra mình
cũng yếu đuối và dễ lầm lỗi như
người mà bạn đang kết án, thì bạn có còn
muốn kết án họ không?
2.
Bạn có dễ dàng tha thứ lần
nữa cho người mà bạn đã từng tha cho
một món nợ lớn, nhưng chính người ấy
lại không chịu tha cho con cái bạn một món nợ
rất nhỏ không?
3.
Khi bạn mang trong mình một nỗi
hờn giận, tâm hồn bạn có bình an
không? Cách tốt nhất và khôn ngoan nhất để
giải quyết nỗi hờn giận ấy là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Sống trên đời, ai cũng lầm
lỗi. Chính ta cũng biết bao lầm lỗi
Trong bài Tin Mừng
Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đòi hỏi ta
phải biết sửa lỗi cho tha nhân. Nhưng trong bài Tin
Mừng hôm nay, Ngài lại yêu cầu ta phải sẵn sàng
tha thứ cho họ một cách vô điều kiện. Như vậy, ta vừa phải sửa lỗi,
lại vừa phải tha thứ.
«Nhân vô thập toàn»,
trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có
những sai trái, lầm lỗi. Xét lại bản thân, ta thấy chính ta
cũng có nhiều sai trái, khiếm khuyết, lầm
lỗi: vô ý có, mà hữu ý hay cố tình cũng có. Đó
chính là lý do khiến ta nên tha thứ cho người khác.
2. Ta luôn thấy lầm lỗi của ta
đáng được thông cảm và tha thứ
Khi bị ai trách cứ, hầu như lần
nào trong thâm tâm ta cũng có lý do để chống chế,
để biện hộ cho sai trái của mình. Điều đó có nghĩa là dù ta có lỗi, ta
vẫn luôn thấy lỗi mình đáng được thông
cảm và tha thứ. Vì chỉ có ta
mới hiểu được nguyên nhân và hoàn cảnh
khiến ta phạm lỗi. Người ngoài sở
dĩ kết án ta là vì họ không
hiểu được thế kẹt của ta, nên họ
không thông cảm được sự sai trái của ta. Tất cả mọi người đều
vậy cả, ai cũng thấy lầm lỗi của mình
đáng được thông cảm.
Theo Dale Carnegie trong
cuốn Đắc Nhân Tâm của ông, thì không ai tự
nghĩ xấu về mình. Ai cũng tự nghĩ
tốt cho mình dù là kẻ xấu nhất trong nhân loại.
Ai cũng nghĩ rằng mình đúng cho dù là
kẻ sai nhất trong nhân loại. Ai
cũng có nhiều lý lẽ để cho rằng mình là
người tốt, người đúng. Ông đã
chứng minh điều ấy bằng những sự
kiện cụ thể mà ông thu thập
được trong đời sống của ông. Theo ông,
ngay cả những tên cướp giết người không
gớm tay vẫn có lý do bào chữa cho
những hành động gớm ghiếc của chúng, mà
chúng nghĩ do thực tâm chứ không phải để
ngụy biện. Tuy dù không hoàn toàn đồng ý với Dale
Carnegie, tôi cũng phải công nhận ông có lý phần nào, và
đó chính là lý do để tôi thông cảm hơn với
những người tôi muốn kết án.
3. Đức Giê-su khuyên ta luôn tha thứ, và
tha thứ vô điều kiện
Đức Giê-su là một con người y
như chúng ta, Ngài cũng cảm nghiệm được
sự yếu đuối của con người y như
chúng ta, chính Ngài cũng bị cám dỗ phạm tội
như chúng ta. Vì thế, mặc dù Ngài không
hề phạm một lầm lỗi nào, Ngài vẫn cảm
thấy mọi tội lỗi của con người
đều đáng được tha thứ. Lý do mà
Ngài đưa ra cho chủ trương tha thứ vô
điều kiện là: Chính bản thân ta có lỗi với
Thiên Chúa nhiều gấp bội ai đó có lỗi với
ta. Nếu ta không tha thứ cái lỗi nhỏ bé ấy cho
người ấy, thì Thiên Chúa làm sao tha cho ta cái lỗi
tầy trời của ta được? Mà
nhất là người ấy lại là hiện thân của
chính Thiên Chúa ở bên ta, vì Ngài tự đồng hóa với
tha nhân của ta.
Hãy tự đặt mình vào địa vị
của Thiên Chúa, tương tự như hoàn cảnh sau
đây, ta sẽ thấy sự cần thiết phải tha
thứ: Có người nợ ta rất nhiều mà ta
sẵn sàng tha cho tất cả, nhưng chính người
ấy lại không chịu tha nợ cho con của ta, cứ
nằng nặc đòi nợ với đủ mọi
đẹ dọa, dù con ta chỉ nợ họ một
số tiền nhỏ. Trường hợp
đó ta sẽ làm gì với người ấy? Nếu không tha thứ cho người khác, ta
cũng làm một hành động phi lý và vô ơn
tương tự như người ấy. Nghĩ cho cùng, không tha thứ cho người khác,
chính là một hành động vô ơn đối với
Thiên Chúa là người đã tha thứ cho mình. Thiên
Chúa tuy không có lỗi gì với ta, nhưng ta phải trả
ơn cho hành động tha thứ của Thiên Chúa bằng
cách tha thứ cho những hiện thân của Thiên Chúa ở
bên ta, tức những người sống chung
quanh ta.
4. Lòng khoan dung độ lượng
Một trong những đức tính cần
thiết để trở nên hoàn hảo là lòng khoan dung
độ lượng. Người khoan dung độ
lượng là người không chấp nhất, mà trái
lại thông cảm với những lầm lỗi của
kẻ khác. Lòng khoan dung độ lượng
được xây dựng trên ý thức về những
yếu đuối, về khả năng phạm lỗi
của chính bản thân mình, và sau đó, của người
khác. Mình cũng phạm lỗi thì mình kết án
người khác thế nào được? Nếu mình
cũng phạm lỗi mà lại đi kết án người khác, thì đó đúng là một
hành động vô liêm sỉ. Trong chuyện người
đàn bà ngoại tình bị bắt quả tang (x. Ga 8,3-11), tuy không phục những người
Pha-ri-siêu vì họ thích giả hình, nhưng tôi phục
họ vì họ còn có liêm sỉ. Khi Đức Giê-su nói: «Ai
trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá
mà ném trước đi!», «Nghe vậy,
họ bỏ đi hết, kẻ trước người
sau, bắt đầu từ những người lớn
tuổi». Họ không dám ném đá kẻ
ngoại tình chính vì họ ý thức mình cũng có tội,
như thế là họ còn liêm sỉ. Như vậy,
kết án người khác, không tha
thứ lầm lỗi cho họ là do ta không ý thức
được lầm lỗi của chính mình. Nếu ý thức được lầm lỗi
của mình mà vẫn kết án, không tha thứ thì chẳng
phải là ta thiếu liêm sỉ sao?
Con người có một mẫu số chung như nhau là rất yếu đuối,
rất dễ lầm lỗi. Xét lại chính bản thân, ta
thấy mình vẫn sai lỗi hằng ngày. Nếu
tôi ít sai lỗi hơn người khác, rất có thể vì
tôi không phải sống trong một hoàn cảnh có nhiều
cám dỗ thúc đẩy tôi sai lỗi như họ.
Nếu tôi cũng sống trong hoàn cảnh y như thế,
liệu tôi có khá hơn họ, hay tôi còn tệ hơn họ
nữa? Không chỉ có yếu tố hoàn
cảnh khiến họ dễ phạm tội hơn tôi, mà
còn nhiều yếu tố khác nữa. Hãy tự
hỏi: Khi mình ở độ tuổi ấy, liệu mình
đã suy nghĩ chín chắn được như
người ấy không? Nếu mình chỉ được
học hành hay được giáo dục như họ thôi,
mình có hành động khá hơn họ không? Nếu
mình bẩm sinh có thể chất hoặc tâm lý yếu
đuối như họ, nếu mình chỉ suy nghĩ
được như họ, liệu mình có hành động
khác hơn không? v.v…
5. Tha thứ làm tâm hồn ta nhẹ nhõm,
thảnh thơi
Kinh nghiệm cho tôi thấy khi nào bực
bội ai điều gì, khi nào để trong lòng nỗi
buồn bực giận hờn ai, thì tâm hồn tôi không
được bình an. Lúc đó, trong tâm hồn tôi có một
xung lực thúc đẩy tôi phải làm một cái gì đó,
chẳng hạn chửi bới người ấy, nói
một câu gì hạ nhục người ấy, hoặc làm
một điều gì khiến người ấy phải
đau khổ… Lúc ấy tôi có cảm tưởng rằng:
có hành động theo sự thúc đẩy của xung
lực ấy, tôi mới nguôi ngoai cơn giận, và tâm
hồn tôi mới tìm lại được bình an. Nhưng
trong thực tế, sau khi thỏa mãn cơn giận
bằng những hành động ấy, tôi chỉ
được nguôi ngoai phần nào, và sau đó lại
tiếp tục mất bình an hơn nữa vì phải
đối phó với sự trả thù của người
kia. Vì khi người kia bị tôi hạ
nhục hay gây đau khổ, thì trong lòng họ lại phát
sinh một xung lực y như tôi trước đó, và
họ quyết thỏa mãn xung lực ấy. Thế là cái
vòng lẩn quẩn được thiết lập, vì:
«Lấy oán trả oán, oán chập chùng» (Đức
Phật).
Nhưng nếu tôi đặt mình vào
địa vị người ấy, tôi sẽ dễ dàng
thông cảm và hiểu được những lý do thúc
đẩy họ hành động như vậy, nhờ
đó tôi dễ dàng tha thứ cho họ. Khi tôi
vừa quyết định tha thứ, lập tức tôi
cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm. Xung
lực thúc đẩy tôi phải trả thù biến
mất. Tích cực hơn nữa,
nếu tôi có tinh thần yêu thương của Đức
Giê-su, thay vì trả oán, tôi quyết định làm một
điều gì tốt cho người ấy. Lúc ấy thường có điều lạ lùng
xảy ra, là người ấy nhận ra ngay sai lầm
của mình và ngỏ lời xin lỗi (Điều lạ
lùng này rất khó xảy ra khi tôi trả đũa).
Từ đó tình cảm giữa hai người thắm
thiết hơn, vì qui luật này vẫn luôn luôn đúng: «Ai
được tha nhiều sẽ mến nhiều, ai
được tha ít sẽ mến ít» (x. Lc 7,47b). Đó cũng là chủ trương «lấy
đức trả oán, oán tiêu tan» của Đức
Phật.
CẦU NGUYỆN
Tôi nghe Chúa nói với tôi: «Nếu con tha
thứ cho mọi người vô điều kiện, dù
họ lỗi nặng đến đâu, thì làm sao Cha có
thể kết án con được?
Chẳng lẽ lòng bao dung của Cha lại thua con sao?
Vả lại con vẫn thường xin Cha: "Xin tha
nợ cho con giống như con tha nợ cho người
khác". Con tha nợ cho người khác vô điều
kiện, Cha cũng phải "như con" mà tha cho con vô
điều kiện, dù con lỗi nặng đến
đâu. Ai cầu xin như con mà không chịu tha thứ là
tự họ bắt Cha kết án họ,
vì họ xin Cha làm "như họ"».
|