Chữ
KHỔ
Theo
Việt ngữ, người ta có lối nói
vui mà thâm thúy về chữ KHỔ thế
này: Ngày xưa chữ Khổ đánh
vần là “ca hát ô khô hỏi
khổ” – khổ mà vẫn ca hát,
còn ngày nay chữ Khổ đánh vần
là “khờ ô khô hỏi khổ”
– khổ mà hóa khờ thì khổ
thật. Thế thì rõ ràng ngày
nay khổ hơn ngày xưa!
Nói
thế thôi chứ lúc nào cũng có
nỗi khổ, không khổ cái này thì
khổ cái kia, không khổ thể lý
thì khổ tinh thần, chẳng tránh đâu
được. Thật vậy, Chúa Giêsu
đã nói rồi: “Ngày
nào có cái khổ của ngày ấy”
(Mt 6:34). Đúng là “chạy trời
không khỏi nắng”.
Theo
Phật giáo, khổ là khái niệm
quan trọng, là cơ sở của Tứ Diệu
Đế (còn gọi là Tứ Thánh
Đế). Đó là bốn chân lý
cao cả trong nội dung bài kinh Chuyển Pháp
Luân: Sinh là khổ; Lão là khổ;
Bệnh là khổ; Tử là khổ.
Thiết
tưởng cũng nên biết rằng Tứ
Diệu Dế bao gồm bốn điều: [1] Khổ
Đế,
chân lý về sự Khổ: Chân lý
thứ nhất cho rằng mọi dạng tồn
tại đều mang tính chất khổ não,
không trọn vẹn. Sinh, lão, bệnh, tử,
xa lìa điều mình ưa thích, không
đạt sở nguyện, gặp gỡ với
người hoặc sự vật mình không
thích đều là khổ. Sâu xa hơn,
bản chất của năm nhóm thân tâm,
Ngũ Uẩn, là các điều kiện
tạo nên cái ta, đều là khổ.
[2] Tập
Đế,
chân lý về sự phát sinh của
khổ: Nguyên nhân của khổ là sự
tham ái, tìm sự thỏa mãn dục
vọng, thỏa mãn được trở
thành, thỏa mãn được hoại
diệt. Các loại ham muốn này là
gốc của Luân Hồi. [3] Diệt
Đế,
chân lý về diệt khổ: Một khi gốc
của mọi tham ái được tận
diệt thì sự khổ cũng được
tận diệt. [4] Đạo
Đế,
chân lý về con đường dẫn đến
diệt khổ: Phương pháp để đạt
sự diệt khổ là con đường
diệt khổ tám nhánh, gọi là
“Bát Chánh Đạo”. Không
thấu hiểu Tứ Diệu Đế được
gọi là “Vô Minh”.
Đau
khổ là tính chất của sự vật
và được người ta “gom”
thành câu cửa miệng: “Đời
là bể khổ”.
Khổ xuất phát từ Ái (yêu) –
vì yêu mà khổ. Yêu là “chết”
trong lòng nhiều lắm, chứ chẳng ít
chi đâu! Tóm lại, mọi thứ khổ
đều dính líu đến Ngũ Uẩn
(sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử
khổ, ái biệt ly khổ, oán tằng
hội khổ, cầu bất đắc khổ,
ngũ uẩn xí thạnh khổ). Nhìn
trước rồi ngó sau, nhìn lên rồi
ngó xuống, chỗ nào cũng thấy
khổ. Cha mạ ơi, răng mà khổ rứa!
Thế
nhưng thật lạ, Lão gia Phaolô lại
có một ước muốn làm hoàn
toàn không giống ai: “Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều
gì, ngoài thập giá Đức Giêsu
Kitô”
(Gl 6:14). Với người đới, có ngu
dại mới thích kiểu như vậy. Thật
thế chăng? Có thể mà cũng không
thể.
Không
đâu xa, vị thừa sai người Pháp
là Đức cố GM Lambert de la Motte (1624–1679)
cũng đã có ý tưởng “không
giống ai” nên mới sáng lập Dòng
Mến Thánh Giá – tức là “yêu
cái khổ”. Chắc hẳn ngài phải
cảm nghiệm sâu sắc về Cuộc Khổ
Nạn của Đức Kitô nên mới dám
có “sở thích” kiểu đó!
Ai
cũng biết điều này: Thập giá
là biểu tượng của sự đau khổ
hoặc bất hạnh. Tại sao? Bởi vì
đó là hình phạt tồi tệ và
ghê gớm nhất thời đó, như
ngày nay là án tử hình. Nhưng
tử hình ngày nay “khỏe re”, bắn
bùm cái chết ngay, hoặc trước
đây chém một phát bay đầu
ngay. Không đáng sợ lắm! Còn tử
hình bằng cách đóng đinh vào
thập giá thì quả là khủng
khiếp, người ta không chết ngay mà
chết dần dần.
Trong
cuộc sống thường nhật cũng chẳng
ai “mê” đau khổ, ai cũng cố
tránh như tránh quái vật hoặc
ma quỷ vậy. Thế mà những người
thực sự yêu mến Đức Kitô lại
“khoái” đau khổ. Đúng là
quá ngược đời! Đối với
những người không có niềm tin vào
Đức Kitô, thậm chí có thể
ngay cả một số người nhận mình
là người Kitô giáo, thật khó
có thể hiểu được ý nghĩa
của thập giá. Họ cho đó là
dại dột, là ngu xuẩn, là điên
rồ, là… “bó tay chấm…
hết”.
Hằng
ngày, trách nhiệm và bổn phận
là “gánh nặng” mà ai cũng
có, mỗi người mỗi kiểu, và
với các mức độ khác nhau. Thánh
Phaolô chân thành tâm sự: “Đối
với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải
là lý do để TỰ HÀO, mà
đó là một sự cần thiết BẮT
BUỘC tôi phải làm. KHỐN thân tôi
nếu tôi KHÔNG rao giảng Tin Mừng!”
(1 Cr 9:16). Việc rao giảng Tin Mừng là
trọng trách, kính mến Chúa và
yêu thương tha nhân là bổn phận
khác – nhưng vẫn song song. Trách
nhiệm và bổn phận không bao giờ
dễ thực hiện, vì thế mà luôn
phải cố gắng. Mệt lắm! Thế nhưng
Thánh Phaolô cho biết là phải “tự
ý làm việc ấy thì mới đáng
Thiên Chúa thưởng công; còn nếu
không tự ý thì đó là một
nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó”
(1 Cr 9:17). Làm vì bị bắt buộc, vì
miễn cưỡng, thì cũng tốt, nhưng
tự nguyện bao giờ cũng tốt hơn,
đáng khen hơn. Cái khó đối
với chúng ta là Thiên Chúa cho chúng
ta hoàn
toàn tự do hành động,
cách chọn lựa là tùy
ý
mỗi người. Cái “tùy ý”
mới đáng lo!
Như
vậy, phần thưởng là gì? Thánh
Phaolô cho biết: “Đó
là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng
không công, chẳng hưởng quyền lợi
Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là
một người tự do, không lệ thuộc
vào ai, nhưng tôi đã trở thành
NÔ LỆ của mọi người, hầu
chinh phục thêm được nhiều người”
(1 Cr 9:18-19). Hoàn toàn tự nguyện chứ
không ai ép buộc. Thánh Phaolô tâm
sự: “Tôi
đã trở nên yếu với những
người yếu, để chinh phục những
người yếu. Tôi đã trở nên
tất cả cho mọi người, để bằng
mọi cách cứu được một số
người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất
cả những điều đó, để
cùng được thông chia phần phúc
của Tin Mừng”
(1 Cr 9:22-23).
Thánh
Phaolô cho biết thêm rằng cũng như
“trong cuộc chạy đua trên thao trường,
tất cả mọi người đều chạy,
nhưng chỉ có một người đoạt
giải”, vì thế mà ai cũng phải
cố gắng hết sức để “chiếm
cho được phần thưởng”. Không
chỉ vậy, trước đó còn “phải
kiêng kỵ đủ điều”. Nghề
nào cũng khó, ngành nào cũng
mệt, muốn “chuyên nghiệp” về
lĩnh vực nào thì phải khổ luyện
không ngừng. Người viết lách mà
không viết thì bị “xuống tay”,
các văn nghệ sĩ không khổ luyện
hằng ngày thì chẳng làm được
trò trống gì, các vận động
viên không cố gắng khổ luyện thì
đừng mong tranh tài,… Đơn giản
như học sinh đi học mà không chăm
chỉ văn ôn võ luyện thì không
thể hoàn thiện bản thân và
không mong gì tươi sáng. Không tự
rèn luyện, chỉ chờ quay cóp rồi
mua bằng cấp thì chỉ là loại
cặn bã xã hội. Với hơn 24.000
tiến sĩ giấy của Việt Nam mà
chẳng làm nên trò trống gì, đó
là “bài học sống” cho những
học sinh nào thích “nhất thân,
nhì thế”. Tục ngữ Việt Nam:
“Ngày
nay học tập, ngày mai giúp đời”.
Nhưng người ta muốn biến nó theo ý
riêng: “Ngày
nay KHÔNG cần học, ngày mai vẫn sáng
ngời”.
Thật tồi tệ!
Tuy
nhiên, mặc dù thực sự học tập
nghiêm túc thì cũng chỉ mong đoạt
“phần thưởng chóng hư”. Còn
chúng ta, các Kitô hữu, có một
mục đích cao hơn: Đạt được
“phần thưởng không bao giờ hư
nát”, đó là phúc trường
sinh trên Thiên Quốc. Không đạt
được “phần thưởng” Nước
Trời là chúng ta phụ tình Thiên
Chúa, làm lãng phí giá Máu
Cứu Độ của Đức Kitô, là
coi thường Lòng Chúa Thương Xót.
Thánh Phaolô nói: “Vậy
tôi đây cũng chạy như thế, chứ
không chạy mà không xác tín;
tôi đấm như thế, chứ không
phải đấm vào không khí. Tôi
bắt thân thể phải chịu cực và
phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người
khác, chính tôi lại bị loại”
(1 Cr 9:26-27). Ai cũng phải tự nhủ và
quyết tâm như vậy!
Theo
Chúa không dễ, nghĩa là phải
thực sự nghiêm túc chứ không thể
cứ tà tà, tùy tiện, gặp chăng
hay chớ. Thật vậy, chính Chúa Giêsu
đã từng bảo chúng ta phải “từ
bỏ mình” và “vác thập
giá mình hằng ngày” (Mt 10:37-38; Mc
8:34; Lc 14:26-27), phải “qua cửa hẹp”
(Mt 7:13), phải ăn chay, phải hãm mình,…
Toàn những điều “làm khổ
mình” thôi. Khó quá chừng
luôn! Thế nhưng Chúa không hề
“chơi khăm” hoặc “gài bẫy”
chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta
“nên người”. Chứ Ngài “hô
biến” một cái là chúng ta vào
Thiên đàng cả đám ngay, nhưng
Chúa muốn chúng ta tự thân cố
gắng để có thể hiểu được
ý
nghĩa sâu xa
và giá
trị cao quý
của sự
đau khổ,
có như thế mới xứng đáng
nhận phần thưởng, và chúng ta
cũng cảm thấy không… ngại. Chúa
tâm lý quá chừng! Người ta nói:
“Có
ăn lạt mới biết thương mèo”.
Đúng vậy, có khổ mới biết
thương người khác.
Sự
khổ luyện hằng ngày chứng minh lòng
chân thành của người muốn theo
Chúa, không thể cứ ung dung tự tại.
Mà có chờ sung rụng thì người
ta cũng phải nhặt lấy, bỏ vô
miệng, chứ chẳng bao giờ có trái
sung nào lại rơi trúng ngay miệng mình
– mà có trúng ngay miệng cũng
vẫn phải nhai, nuốt, và tiêu hóa.
Việc đơn giản như thế thôi mà
vẫn thấy “mệt” dữ nghen!
Kinh
nghiệm sống cho thấy rằng có gian nan
mới thành nhân (chưa nói tới
thành công), có đau khổ mới nên
khôn, có thất bại mới biết cố
gắng vươn lên: “Thất
bại là mẹ thành công”
(Tục ngữ Việt Nam). Đức Phật được
người ta kính trọng vì ông đã
cảm được nỗi đau khổ qua Tứ
Diệu Đế, các vĩ nhân được
ca tụng vì họ đã từng nếm
mùi gian khổ, các chính khách được
thế giới tôn vinh vì họ đã
kiên trì “nằm gai nếm mật”.
Chúa Giêsu của chúng ta cũng thế,
và còn hơn thế nữa. Biết bao vị
tử đạo đã minh chứng đức
tin bằng việc đổ máu vì kính
tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Thật
vậy, chẳng nếm mùi gian khổ thì
khó nên bậc siêu quần!
Tuy
nhiên, phàm nhân chúng ta quá yếu
đuối, chỉ ưa nhàn rỗi chứ
không muốn “động chân, động
tay”. Hãy nghe Kinh Phật nói: “Con
người là nô lệ vì chưa hủy
diệt được ý tưởng về
bản ngã trong nội tâm”.
Cái tôi còn quá lớn nên đời
vẫn còn là bể khổ. Mà chẳng
đâu xa, có lúc chính chúng ta
tự làm khổ mình thôi!
Cuộc
đời càng đau khổ thì chúng
ta càng cần Chúa: “Mảnh
hồn này khát khao mòn mỏi mong tới
được khuôn viên đền vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng
sống mà hớn hở reo mừng”
(Tv 84:3). Ngài là Chúa Tể càn
khôn, là Đức Vua, là Thiên Chúa
chúng ta tôn thờ, “ngay chim sẻ còn
tìm được mái ấm, cánh nhạn
kia cũng làm tổ đặt con bên bàn
thờ của Chúa” (Tv 84:4), thế chúng
ta lại không đáng hơn chim sẻ ư?
Thánh
Vịnh gia nói: “Phúc
thay người ở trong thánh điện và
luôn được hát mừng Thiên
Chúa”
(Tv 84:4). Nhưng muốn vậy thì phải khổ
luyện, phải dám “ngược đời”
như Chúa Giêsu. Nói dễ, làm
khó. Ráng mãi vẫn chưa được.
Phàm nhân khốn nạn vậy đó.
Hứa nhiều mà chẳng giữ bao nhiêu.
Trăm voi không được bát nước
xáo! Do đó chúng ta phải không
ngừng kêu van: “Lạy
Chúa là Chúa Tể càn khôn, xin
đoái nghe lời con cầu nguyện. Xin lắng
tai, lạy Chúa nhà Gia-cóp. Lạy Chúa
là khiên mộc chở che, xin thương
xem nhìn đến gương mặt đấng
Ngài đã xức dầu”
(Tv 84:9-10). Nước Trời vô giá, không
thể ví với bất kỳ thứ gì
trên thế gian này. Thật vậy, “một
ngày tại khuôn viên thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày” (Tv
84:11a).
Chỉ
là người đời mà người
ta cũng còn ví von: “Nhất
nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”
(một ngày ở tù dài đằng
đẵng như ngàn năm). Điều đó
cho thấy rằng niềm hạnh phúc của
cuộc sống tự do quý giá như thế
nào. Ai đã từng ở tù rồi
thì mới cảm nhận được sự
tự do quý giá. Còn Thánh Vịnh
gia có cách so sánh thế này: “Thà
con ở cổng đền Thiên Chúa vẫn
còn hơn sống trong trại ác nhân!”
(Tv 84:11b).
Theo
cách ví von của phàm nhân và
cũng để dễ hiểu, người ta nói
Thiên Chúa là vầng thái dương,
là thuẫn đỡ, là khiên che,…
và chính Ngài là Đấng tặng
ban ân huệ với vinh quang. Thế nên “ai
sống đời trọn hảo, Người
chẳng nỡ từ chối ơn lành”
(Tv 84:12). Điều đó không là “dụ
dỗ” hoặc “mồi chài” mà
là điều chắc chắn: “Trước
khi trời đất qua đi, một chấm một
phết trong Lề Luật cũng sẽ không
qua đi, cho đến khi mọi sự được
hoàn thành”
(Mt 5:18).
Theo
trình thuật của Thánh Luca, vào một
ngày đẹp trời, Đức Giêsu tỉ
tê tâm sự với các môn đệ
thế này: “Mù
mà lại dắt mù được sao? Lẽ
nào cả hai lại không sa xuống hố?”
(Lc 6:39). Rồi Ngài nói thêm: “Học
trò không hơn thầy, có học hết
chữ cũng chỉ bằng thầy mà thôi”
(Lc 6:40). Chúa Giêsu rất bình dân,
Ngài thực tế mà có duyên,
nghiêm chỉnh mà cũng có “máu”
hài hước. Ngài đặt vấn đề:
“Sao
anh thấy cái rác trong con mắt của
người anh em, mà cái xà trong con mắt
của chính mình thì lại không
để ý tới? Sao anh lại có thể
nói với người anh em: ‘Này anh,
hãy để tôi lấy cái rác
trong con mắt anh ra’, trong khi chính mình
lại không thấy cái xà trong con mắt
của mình?”
(Lc 6:41-42a).
Cái
nào ra cái nấy, nghiêm túc và
rạch ròi. Lúc vui thì vui hết mình,
mà lúc làm việc thì cũng nhiệt
thành. Cười cười mà “chết
người” chứ chẳng chơi. Đừng
thấy Chúa “nói nhẹ” mà
tưởng Ngài “cho qua phà” rồi
cả gan “được đằng chân,
lân đằng đầu”!
Thật
vậy, Chúa Giêsu đã thẳng thắn
nói: “Hỡi
kẻ đạo đức giả! Lấy cái
xà ra khỏi mắt ngươi trước
đã, rồi sẽ thấy rõ, để
lấy cái rác trong con mắt người
anh em!”
(Lc 6:41-42b). Lại liên quan chuyện giả hình,
giả nhân giả nghĩa. Thế gian nhiều
loại người này, dù mức độ
khác nhau, nên Chúa Giêsu rất ghét
loại người “miệng nam mô mà
bụng một bồ dao găm”.
Không
sống giả nhân giả nghĩa, mà sống
trong sạch và cương trực, đó
cũng là cách “vác thập giá
mình” mà theo bước Chúa Giêsu
lên Can-vê. Lên đó không phải
để ngắm trời, ngắm đất,
thưởng lãm thiên nhiên hữu tình,
hoặc hóng gió mát rồi ngâm thơ
và ca hát, hoặc lên đó đốt
lửa trại, mà lên đó để…
CHẾT. Chết thật chứ không chết
giả!
Ôi,
Thập Giá là “cái giá”
phải trả thật, trả suốt đời.
Khổ thật, khổ lắm, khổ tới bến,
thảo nào người ta gọi là KHỔ
GIÁ chứ không KHỔ GIẢ. Nhưng cái
khổ cũng có cái giá của nó,
có tiền bạc hoặc vàng cũng chẳng
mua được đâu. Thật chứ không
đùa! Chính Chúa Giêsu đã
nói thẳng, không hề úp mở,
không nói mơ hồ, cũng chẳng lưỡng
lự: “Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà
theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống
mình thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì tôi và
vì Tin Mừng thì sẽ cứu được
mạng sống ấy” (Mc
8:35).
Chuyện
đâu còn có đó. Sau cơn mưa,
trời lại sáng. Rồi mọi đau khổ
sẽ biến thành vinh quang, và người
chết sẽ sống lại để được
trường sinh. Thế thì trên cả
tuyệt vời rồi còn gì!
Lạy
Thiên Chúa, con vẫn cố gắng theo Đức
Kitô mặc dù con chưa sát bước
Ngài. Xin giúp con đủ sức vượt
qua chính mình để có thể can
đảm mà sống “ngược đời”
như Con Một Ngài, Đấng đã
tiên phong nêu gương cho con học hỏi;
xin dạy biết cách yêu mến và
hãnh diện vì Thánh Giá mà
dám chết cho tội mình, chết cho chân
lý và chết để bảo vệ công
lý. Đau khổ rất thật, nhưng nếu
đau khổ thật là yêu mến Ngài
thì con xin vâng, xin nâng bước con
từng ngày và giúp con đánh vần
cho trọn chữ KHỔ. Con cầu xin nhân Danh
Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|