Sửa lỗi cho nhau
– Lm Ignatiô
Hồ Thông
Ed 33, 7-9
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ bên
cạnh đồng bào của mình trong cùng cảnh ngộ
lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế
kỷ thứ sáu trước Công Nguyên). Ông cảm thấy
mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở
của anh em mình.
Rm 13, 8-10
Thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma
thực hành tình tương thân tương ái. Bổn
phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải
có đối với anh em đồng loại là Đức
Ái.
Mt 18, 15-20
Trong Tin Mừng, thánh Mátthêu trích dẫn
những lời của Đức Giêsu mời gọi các
Kitô hữu đừng để cho một người anh
em nào của mình phải hư mất mà không tìm cách sửa
lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều
cách, với sự tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33, 7-9)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en
sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và
đầu thế kỷ thứ sáu sau Công Nguyên. Vào lúc
đó, hoàn cảnh đất nước thật bi
thảm. Vương quốc Giu-đa bị họa
diệt vong. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so chiếm thành thánh Giê-ru-sa-lem
lần thứ nhất vào năm 598-597 và bắt đi
lưu đày một phần lớn dân cư, nhất là
thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thuộc trong
số những người lưu đày đầu tiên
nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình
chủ yếu bên cạnh những đồng bào lưu
đày của ông cho đến khi qua đời, vào năm
571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en trước
khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang
lấy ở nơi mình vừa tinh thần ngôn sứ
vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta
đọc vào Chúa Nhật nầy làm chứng điều
nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư
tế thành một bất khả phân ly ở nơi ông.
Bối cảnh là
làng Tel-Avi bên bờ sông Cơ-va không xa Ba-by-lon, nơi vị
ngôn sứ cùng với một số người
đồng hương sống trong cảnh lưu đày.
Từ các biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài
học. Các ngôn sứ đã kêu gọi vua, bậc vị
vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời
của các ngài không được lắng nghe, vì thế
sự trừng phạt bất ngờ giáng xuống trên
họ. Nét độc đáo của sứ điệp mà
ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách
nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu
gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong
đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con
Người”:
Diễn ngữ “con
người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa
đơn giản là “một con người”, “một cá
nhân”, như trong câu: “Hỡi con người. Trong câu này,
diễn ngữ “con người” quy chiếu đến
chính vị ngôn sứ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thường
sử dụng đặc ngữ này để nhấn
mạnh: Thiên Chúa là Đấng ngàn trùng chí thánh,
trước Ngài con người chỉ là một phàm nhân
mõng dòn, yếu đuối và tội lỗi (6, 1-6). Mỗi
lần Thiên Chúa ủy thác cho ông sứ điệp của
Ngài, Ngài đặt ông vào chỗ của ông để ông
khỏi phải tự cao tự đại về những
thị kiến hay xuất thần mà Thiên Chúa gởi
đến cho ông. Vị ngôn sứ phải tự xoá mình
như một kẻ vô danh tiểu tốt.
2. Người canh
gác:
“Ta đặt
ngươi làm người canh gác nhà Israel”. Những hình
ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”,
“truyền lệnh sứ” rất quen thuộc trong Cựu
Ước để chỉ ngôn sứ. Ở đây,
vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố là
“người canh gác nhà Israel”. Người canh
gác đứng trên vọng gác tường thành có nhiệm
vụ canh chừng tai họa sắp xảy đến mà
cảnh giác dân thành kịp thời. Vì thế, vai trò của
ngôn sứ không chỉ truyền đạt sứ
điệp mà còn cảnh báo, đe dọa để kêu
gọi dân chúng hối cải ngỏ hầu tránh những
án phạt.
Xa hơn một chút,
chính Ê-dê-ki-en gợi lên sứ vụ ngôn sứ của ông
thật giản dị: “Phần ngươi hỡi con
người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi
dọc theo các bức tường và trước các cửa
nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với
người kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa
phán thế nào!’. Chúng đến với ngươi đông
như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt
ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói…” (Ed 33, 30-32).
Chính trong những cuộc chuyện trò thân quen và gần
gũi như vậy mà vị ngôn sứ mới có thể
ngỏ lời với từng người một những
lời cảnh báo trong tình huynh đệ.
3. Bổn phận
đối với anh em mình:
Đối với
dân Israel, chết không gì khác
hơn là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa,
Đấng là nguồn mọi thiện hảo. Cựu
Ước thường trình bày những huấn lệnh
của Thiên Chúa trong viễn cảnh của một sự
chọn lựa giữa sự sống và sự chết,
hạnh phúc và bất hạnh, lời chúc phúc và lời
nguyền rủa (x. Đnl 30, 15-20; Hc 15, 15-16).
Ê-dê-ki-en là vị ngôn
sứ đầu tiên nhấn mạnh sự thưởng
phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải
chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng
không mang lấy tội của con” (Ed 18, 20). Số phận
của mỗi người không phải luôn luôn bất di
bất dịch như đinh đóng cột: người
công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội
lỗi cũng có thể hoán cải trở thành
người công chính.
Từ đó, ông
nhấn mạnh trách nhiệm của người biết
huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của
Ngài, người ấy có bổn phận phải giúp anh em mình
biết biện phân tỏ tường, nếu không,
đừng nghĩ là mình vô can trước sự hư
mất của anh em mình: “Nếu Ta bảo đứa gian
ác: “Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết”, mà
ngươi không nói để cảnh cáo nó phải từ
bỏ con đường gian ác, thì chính nó, đứa gian
ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu
của nó, Ta sẽ đòi ngươi”. Sứ vụ
của vị ngôn sứ cốt yếu ở nơi hành
động nầy mà Đức Giêsu sẽ đích thân
căn dặn các môn đệ của mình.
BÀI ĐỌC II (Rm 13, 8-10)
Chúng ta tiếp
tục đọc phần luân l#ý của thư gởi tín
hữu Rôma. Thánh Phaolô vừa mới nêu lên những bổn
phận công dân mà người Kitô hữu phải phục
tùng: vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù
phải chu toàn tất cả những nghĩa vụ công dân
nầy, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc
nợ đối với anh em đồng loại: món
nợ tương thân tương ái không bao giờ hoàn
tất được.
1. Yêu người
theo Cựu Ước:
“Anh em đừng
mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân
tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề
luật”. Thập giới mời gọi phải tôn
trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của
họ như tội ngoại tình, tội sát nhân, tội
trộm cắp…, nhưng không hàm chứa một cách minh
nhiên bổn phận yêu người. Yêu người
được sách Lê-vi 19, 18 công bố và được
thánh Phaolô trích dẫn: “Ngươi phải yêu anh em
đồng loại như chính mình”.
2. Yêu người
theo Tân Ước:
Theo Cựu
Ước, “anh em đồng loại” trước hết
là những người cùng chung một dân tộc,
đồng bào. Đức Giêsu đã mở rộng
huấn lệnh yêu người đến tất cả
mọi thành viên cộng đồng nhân loại, không có
bất kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu
thương kẻ thù nữa. Thánh Phaolô nêu lên không chỉ
luật Mô-sê, nhưng cũng luật Đức Ái Kitô giáo
nữa. Thánh nhân không đề cập đến huấn
lệnh thứ nhất: “mến Chúa”, vì lời khuyên
bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái
huynh đệ. Vì thế, huấn lệnh yêu người
bất khả phân ly với huấn lệnh mến Chúa,
từ mến Chúa mà yêu người được khơi
nguồn. Nếu yêu người vô giới hạn, chính là
theo gương của Thiên Chúa, Đấng yêu thương
con người khôn cùng. Ở đây, bằng thể
thức đóng khung, vị sứ đồ nhấn
mạnh yêu người là “chu toàn lề luật” (13, 8 và 9).
TIN MỪNG (Mt 18, 15-20)
Trong chương 18
nầy, thánh Mátthêu tập hợp những huấn lệnh
mà Đức Giêsu đã ngỏ lời với Nhóm
Mười Hai, cộng đồng đầu tiên của
Giáo Hội Ngài, về đời sống huynh đệ
trong lòng Giáo Hội. Chương 18 này có thể chia thành hai
phần: phần thứ nhất (18, 1-14) bắt đầu
với “những kẻ bé mọn” và kết thúc với
dụ ngôn “con chiên lạc”; phần thứ hai (18, 15-35)
bắt đầu với việc “sửa lỗi cho anh em”
và kết thúc với dụ ngôn “tên mắc nợ không
biết xót thương”. Đoạn Tin Mừng hôm nay
thuộc phần thứ hai, ở đó Chúa Giêsu chỉ cho
các môn đệ cách thức sửa lỗi cho nhau trong
đức ái.
1. Sửa lỗi anh
em:
Việc Đức
Giêsu mời gọi các môn đệ sửa lỗi cho nhau
đã được Luật Mô-sê đề cập
đến như được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi
không được để lòng ghét người anh em,
nhưng phải mạnh dạn quở trách người
đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi
mang tội vì nó” (Lv 19, 17). Câu trích dẫn nầy đặt
liền sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu
đồng loại như chính mình” (Lv 19, 18). Như
vậy, sửa lỗi cho anh em thuộc về luật
đức ái.
Theo truyền
thống Do thái giáo, người ta không được truy
tố kẻ phạm tội mà không cảnh báo trước
trong chốn riêng tư. Vào thời Chúa Giêsu, các kinh sư
phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục
tốt đẹp nầy. Đức Giêsu phục hồi
tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài
đề nghị ba giai đoạn trong việc sửa
lỗi huynh đệ.
-
Sửa lỗi anh em trong cuộc gặp
gỡ riêng tư chỉ giữa hai người, không ai khác
hay biết.
-
Nếu lần đầu tiên không có
kết quả, tiếp tục lần thứ hai với
sự hiện của một hay hai người khôn ngoan
để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý.
Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ
nhục ở nơi cộng đoàn.
-
Nếu lần nầy cũng thất
bại, lúc đó mới thưa với cộng đoàn.
Nếu người anh em nầy không chịu nghe cộng
đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có
thể bị khai trừ hay bị kể như một
người dân ngoại hay một người thu thuế,
tức là một người ngoan cố, không có tinh
thần phục thiện, mà người ta tránh giao
tiếp.
Với những
lời khuyên sửa lỗi cho nhau theo ba giai đoạn
như trên, chắc chắn Chúa Giêsu muốn dự phòng các
môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu
– tránh tất cả mọi hình thức khai trừ một thành
viên quá tàn nhẫn. Nhưng Ngài còn muốn hơn nữa
rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành
ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không
phải là ngẫu nhiên khi những lời khuyên nầy theo
liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc”. Giáo Hội phải
bày tỏ sự ân cần như thế đối với
người lỗi phạm.
2. Viễn cảnh
Giáo Hội:
Đức Giêsu
định vị bổn phận sửa lỗi anh em và
những biện pháp kỷ luật mà cộng đoàn Kitô
hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội
Ngài. Chính như vậy mà Ngài mở rộng năng
quyền, mà trước đây Ngài đã trao phó cho thánh
Phê-rô, bây giờ cho Tông Đồ Đoàn: “Tất cả
những gì dưới đất anh em cầm buộc, trên
trời cũng cầm buộc như vậy; tất
cả những gì dưới đất anh em tháo cởi,
trên trời cũng tháo cởi”. Và Ngài sẽ tái khẳng
định năng quyền nầy cho họ sau khi Ngài
phục sinh (Ga 20, 23).
Đức Giêsu thêm
vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn
luôn hiện diện ở giữa các tín hữu của Ngài
khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ
hai hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng
ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp trả
lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng
cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giêsu
đích thân ở giữa họ”. Khi đặt tính hiệu
lực của lời cầu nguyện như thế vào
trong văn mạch sửa lỗi cho anh em, chắc chắn
Chúa Giêsu nhắm đến không chỉ việc tiến hành
sửa lỗi cho anh em theo ba giai đoạn, nhưng còn
phải cầu nguyện cho anh em lỗi phạm nữa,
ngõ hầu nhờ ơn Chúa mà anh em nhận ra và sửa
lỗi để cộng đoàn không phải mất
bất cứ người anh em nào. Tấm lòng của
vị mục tử nhân lành là không muốn bất cứ
con chiên nào phải hư mất.
|