Đức
Giêsu tiên báo khổ
nạn lần thứ nhất
(Suy niệm
của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Lời tiên báo
đầu tiên về Thương Khó được
trực tiếp nối kết với “cuộc thẩm
vấn” Xêdarê Philipphê (cc.13-16.20), nhất là với câu
trả lời của các môn đệ. Tâm trí của các ông
hình như đang hướng về một lý tưởng
thiên sai trần thế và có tính quốc gia. Lúc đầu
Đức Giêsu đã yêu cầu các ông phải giữ kín (c.
20), còn bây giờ Người bắt đầu vén mở
cho các ông thấy số phận bi đát đang chờ
đợi Người. Cứ cho đi là cuối cùng
cũng đi đến mục tiêu mà họ đang hết
sức khao khát (x. 17,4; 20,20-28), nhưng con đường
đưa tới đó lại hoàn toàn đi ngược
lại mọi cách nhìn và mọi sự chờ đợi
của các ông. Công thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu
bắt đầu …” được tác giả dùng hai
lần để đánh dấu hai phần lớn của
tác phẩm (4,17; 16,21): ở đây, công thức ấy cho
thấy một khúc quanh trong cuộc đời hoặc
trong sinh hoạt của Đức Giêsu.
Trong phép rửa
của Đức Giêsu, Chúa Cha đã cho thấy
Người là tôi tớ (3,17 dựa theo Is 42,2). Trong các cám
dỗ, Đức Giêsu đã chứng tỏ Người
đi theo hướng làm Mêsia khiêm nhường (4,1-11). Khi
giảng Bài Giảng trên núi, Người đã chúc phúc cho
những người nghèo (5,2). Khi trả lời cho các
sứ giả của Gioan Tẩy Giả, Người
đã ám chỉ Người là Đấng Mêsia của
người nghèo (11,5), của những người đau
khổ phiền sầu (11,28-30). Thất bại của
sứ vụ Galilê không tiên báo một tương lai màu
hồng. Nhưng các tông đồ không để ý
đến các hoàn cảnh đó, cũng như không quan tâm
đến những ám chỉ hoặc những tuyên bố
rõ ràng của Đức Giêsu. Các ông chờ đợi
mọi sự, trừ những gì phải xảy ra thật
sự. Các câu trả lời ở Xêdarê Philípphê cho thấy
tâm trí các ông vẫn còn đang hướng về các lý
tưởng vinh quang và uy hùng trần thế.
2.- Bố cục
Bản văn
này có thể chia làm ba phần:
1) Đức
Giêsu tiên báo cuộc Thương Khó (16,21):
a) Khúc quanh quan trọng (c. 21a),
b) Mô tả chi tiết tương
lai đang chờ Người tại Giêrusalem (c. 21b);
2) Phêrô ngăn cản Đức
Giêsu đi vào Khổ Nạn (16,22-23):
a) Phêrô ngăn cản Đức
Giêsu (c. 22),
b) Đức Giêsu xác định
vị trí của Phêrô (c. 23).
3) Đức
Giêsu giáo huấn về đời môn đệ (16,24-27):
a) Quy luật tổng quát của
đời môn đệ (c. 24),
b) Nghịch lý “cứu – mất”
(c. 25),
c) Một suy tư mục vụ:
nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c. 26),
d) Một biến cố
tương lai, “Con Người sẽ ngự đến
trong vinh quang”: nên khôn ngoan cân nhắc mà chọn lựa (c.
27).
3.- Vài điểm chú giải
- Từ lúc đó (21): Công thức này đánh dấu hai
phần lớn của Tin Mừng Mt: phần một là
4,17–16,20 được dành để nói về Nước
Trời; phần hai là 16,21–28,20 được dành cho Con
Người trên đường đi tới Thương
Khó và Phục Sinh. Công thức “Từ lúc đó, Người
bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết” cho
thấy tất cả mức hệ trọng của
quyết định Đức Giêsu đã lấy và mối
nguy hiểm mà Người đang đi vào.
- tỏ cho biết (21): Tác giả không dùng động
từ “giảng dạy” (didaskô; x. Mc 8,31), vì ngài coi
động từ này ưu tiên diễn tả giáo huấn
luân lý.
- Người phải
đi (21): Động
từ “phải” (hy lạp dei = cần thiết) có ý nói
đây là một điểm thuộc ý muốn, hoặc
chương trình của Chúa Cha.
- đi Giêrusalem,
chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị
giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (21): Đức Giêsu mô tả chi
tiết chương trình Người đang đi vào.
Điều này cho thấy Người biết trước
và Người làm chủ tình hình. Bị giết chết
(apoktanthênai, aor. inf. pass. apokteinô) và … sống lại
(egerthênai, aor. inf. pass. egeirô): Đây là những động
từ ở thái bị động cho thấy Đức
Giêsu không chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do
Thái, hoặc nói cho cùng, là chính Thiên Chúa.
- ngày thứ ba (21): có nghĩa là một thời gian
ngắn.
- Phêrô liền kéo riêng …
bắt đầu trách … (22): Phản ứng của Phêrô cũng là phản ứng
của sự khôn ngoan loài người khi đứng
trước sứ điệp về thập giá. Vị
tông đồ muốn có sự thoả hiệp, sự thích
nghi, chấp nhận buông xuôi theo những áp lực của
tính ích kỷ hoặc của quyền lực. Mới
đây còn là gương mẫu của người tin
(16,17), nay ông thành người tiếp tay cho Satan, bởi vì
ông đã đề nghị cho Đức Giêsu một con
đường như Tên Cám Dỗ đã đề
nghị (4,1-11).
- Anh cản lối Thầy
(23): dịch sát
“Anh đang trở thành tảng đá làm cho Thầy
vấp”. Mới đây là “tảng đá trên đó Thầy
sẽ xây Hội Thánh”, bây giờ Phêrô thành tảng đá
“cản lối Thầy [làm cho Thầy vấp]”. Thật ra,
tảng đá xây Hội Thánh không phải là bản thân bác
thuyền chài Simôn, mà là niềm tin của ông đặt
nơi Đức Giêsu. Thiếu niềm tin này, tất
cả công việc của ông đều sụp đổ.
- từ bỏ chính mình
(24): có nghĩa là
bỏ đi cả những khát vọng, những đòi
hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát
vọng và đòi hỏi của kẻ khác. Tức là không
phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ
ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.
- đi (bước)
theo (24):
đồng nghĩa với “học với; làm môn
đệ”
(x. 11,29). Động từ này không có nghĩa là
“đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho
thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của
thầy, lặp lại những chọn lựa của
thầy, tức là nối tiếp công trình mà thầy đã
bắt đầu với biết bao hy sinh đau khổ.
- việc họ làm (27): Praxis có nghĩa là “lối
sống, lối cư xử”, hàm ý là có các kinh nghiệm
nữa. Tác giả Mt chọn từ này rất có thể
bởi vì ngữ cảnh không ưu tiên nói về các “hành vi”
(erga) hiện tại của người môn đệ,
nhưng nói về sự đau khổ tích cực của
họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu tiên báo
cuộc Thương Khó-Phục Sinh (21)
Sau lệnh im
lặng ở c. 20, làm cho các môn đệ trở thành
những người ở bên trong, có sự hiểu
biết đặc biệt mà dân chúng không có, Đức
Giêsu loan báo cho họ những dau khổ và sự phục
sinh của Người. Bây giờ Người đào sâu
sự hiểu biết đặc biệt của các môn
đệ.
Với công
thức “Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt
đầu”, chúng ta hiểu rằng lời tiên báo
Thương Khó-Phục Sinh này không phải là một
lời sấm biệt lập, nhưng là một
chương mới mà Đấng Cứu thế đang
mở ra trước mắt các môn đệ, chứ không
riêng Phêrô. Các ông vẫn đang mơ những hào nhoáng
thế gian, một cung cách cứu thế vinh quang trần
tục, nên không dễ gì mà đưa các ông đến
chỗ quan niệm ngược lại. Tuy nhiên, Đức
Giêsu cương quyết đi vào đề tài mới.
Người trình bày chi tiết: (“tỏ cho biết”,
deiknyein) nơi sẽ xảy ra biến cố, bản án
tử hình phải chịu, những người sẽ xét
xử, và cuộc Phục Sinh ngay sau đó. Đây là
điều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa Cha.
Các động từ ở thái bị động
(apoktanthênai và egerthênai) cho thấy Đức Giêsu không
chủ động, nhưng là các thủ lãnh Do Thái, hoặc
nói cho cùng, là chính Thiên Chúa. Tuy nhiên, bài tường thuật
cuộc Thương Khó sẽ cho thấy Đức Giêsu
cũng chủ động. Người đi theo con
đường được chỉ định trong
tư cách là Con vâng phục của Thiên Chúa.
Qua phản
ứng của các môn đệ mà đại diện là
Phêrô, tác giả cho thấy sự vấp phạm của
cọng đoàn tín hữu sơ khai khi đứng
trước chướng kỳ thập giá (x. 1 Cr 1,17-25; Rm
1,16).
* Phêrô ngăn cản
Đức Giêsu đi vào Khổ Nạn (22-23)
Phản ứng
của Phêrô giúp hiểu sự kháng cự của trí khôn loài
người khi đứng trước sứ điệp
về thập giá. Mới trước đó, với lời
tuyên xưng Đức Giêsu là “Đấng Kitô (=
Đấng Mêsia)”, được Thầy khen là đã phát
biểu dưới ánh sáng mạc khải của Chúa Cha,
Phêrô nghĩ rằng lời nói này hẳn cũng có giá
trị như thế! Ông không ngờ bây giờ ông đã
trở thành hiện thân của Satan đang tìm cách cản
bước Đức Giêsu đi theo kế hoạch
của Chúa Cha. Tảng đá xây dựng Hội Thánh
thật mong manh nếu không tin tưởng cạy dựa
vào Đức Giêsu.
Ở đây,
còn có thể hiểu thêm một tầng ý nghĩa nữa:
Phêrôi là người phát ngôn thay cho nhóm môn đệ,
giống như ông đã tuyên xưng đức tin ở c.
16 với những lời lẽ của các môn đệ và
lời tuyên xưng của Giáo Hội. vậy hẳn là
Phêrô không chỉ phản đối nhằm phi bác đau khổ
của Đức Giêsu, mà còn phi bác đau khổ của
người môn đệ và của Giáo Hội. Trong tư
cách là môn đệ, ông sống tình trạng nhị giá
giữa tin tưởng và hoài nghi, giữa tuyên xưng và
sợ hãi hậu quả của lời tuyên xưng ấy,
giữa phản bội và hối hận (x. 26,69-75). Phêrô
chẳng xấu hơn các môn đệ vì ông đã phản
bội Thầy chẳng hạn, cũng như ông không
tốt hơn các bạn vì ông đã tuyên xưng Thầy ở
16,16-19.
Đức Giêsu
đã phản ứng rất mạnh lại với lời
can gián của Phêrô: “Xatan, lui lại đàng sau Thầy
(Hypage… Satana)” (c. 23). Lời này nhắc lại chước
cám dỗ cuối cùng ở 4,10, khi Đức Giêsu loại
bỏ việc thống trị thế giới theo
đề nghị của quỷ. “Anh cản lối
Thầy”, anh là tảng đá vấp (skandalon) cho Thầy.
Skandalon là một từ mạnh để diễn tả
dịp tội. Hình ảnh này đối lập lại
với “tảng đá” là chính Phêrô ở 16,18. Các câu 17-18 và
c. 23 cho thấy rõ sự đối lập căn bản
giữa Thiên Chúa và loài người: do ân huệ Thiên Chúa ban,
Phêrô là một “tảng đá (xay dựng Hội Thánh)”; do
chính suy nghĩ của ông, ông là một “tảng đá
vấp”. “Lui lại đàng sau Thầy” (opisô mou) nhắc
lại 4,19 và chuẩn bị cho 16,24, xác định vị
trí duy nhất được dành cho Phêrô.
* Đức Giêsu giáo
huấn về đời môn đệ (24-27)
Quy luật
sống của người môn đệ được
tổng hợp trong ba điểm: từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình và bước theo. “Từ bỏ chính mình”
là bỏ đi cả những khát vọng, những đòi
hỏi chính đáng của mình mà nhận lấy khát
vọng và đòi hỏi của kẻ khác; tức là không
phải chỉ chiến thắng các cám dỗ, mà còn bỏ
ra sau những quyền lợi chính đáng của riêng mình.
“Vác thập giá mình” là chấp nhận bản án thập giá;
tức là từ bỏ những tiện nghi thoải mái và
cả mạng sống mình vì muốn trung thành với
Đức Giêsu và với sứ mạng của
Người. “Bước theo” không có nghĩa là
“đồng hành”, “tháp tùng” để làm vinh dự cho
thầy, nhưng là bắt chước các phong thái của thầy,
lặp lại những chọn lựa của thầy,
tức là nối tiếp công trình mà thầy đã bắt
đầu với biết bao hy sinh đau khổ. Đau
khổ của Đức Giêsu và đời môn đệ
với các đau khổ thuộc về nhau. Ta chỉ có
thể thực sự hiểu Đức Giêsu bằng cách
bước theo Người trong đau khổ. Hẳn là
Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không
sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.
Chương
trình trên đây không dễ; nó đòi hỏi rất nhiều
ý chí và can đảm. Người môn đệ sẽ
bị cám dỗ trốn chạy để cứu lấy
mạng sống mình khỏi những đau khổ và
một cái chết tàn bạo, nhưng đó là một
ảo tưởng. Rõ ràng là đau khổ không phải
chỉ là chấp nhận thụ động, nhưng là một
hình thái sống tích cực: “Nếu ai muốn… (ei tis
thelei…)”. Qua nghịch lý “cứu – mất”, tác giả giúp
hiểu rằng nếu kiên trì trong đời môn
đệ, người tín hữu có thể phải
chết sớm nhưng sau đó sẽ được
sống muôn đời; trái lại, nếu người
ấy chối từ Đức Giêsu, cuộc sống
trần thế của người ấy có thể
được kéo dài thêm một thời gian nữa,
nhưng sau đó sẽ kết thúc bằng một cái
chết thật sự.
Một suy
tư mục vụ (c. 26) bổ túc câu nói về “mất” và
“cứu” mạng sống. Viễn tượng
được mở rộng ra nữa: Người ta có
thể đạt được tối đa thành tích
trần thế trong cuộc đời này, tới mức
chinh phục được cả thế giới, nhưng
nếu phải mất tình nghĩa, sự hiệp thông
với Thiên Chúa, là nguồn sự sống chân thật, thì
tất cả những lợi lộc có đó sẽ vô ích,
bởi vì với các của cải trần thế đã
tích lũy lại đó, người ta vẫn không thể
vớt lại được những gì đã mất và
không thể chinh phục những gì họ không có.
Thế rồi,
Đức Giêsu quay về Con Người, Đấng
sẽ đến với các thiên thần để xét
xử thế gian. Đây là việc xét xử về lối
sống (praxis) của loài người mà tác giả sẽ
mô tả chi tiết ở 25,31-46. Lời nói về cuộc
quang lâm của Đức Giêsu “Con Người” cũng
nhắc nhở người ta biết chọn lựa
đúng đắn. Tuy nhiên, Đức Giêsu, là “Con
người” và là “Thẩm phán thế gian”, cũng là
Đấng đang ở cùng các môn đệ, để
dạy dỗ họ, đi trước họ vào trong
đau khổ và phục sinh, gọi họ là “có phúc”,
vẫn kêu gọi họ “bước theo Người” khi
họ sa sút, và ở cùng họ như là Đấng
được tôn vinh “cho đến tận thế” (28,20). Sự
phán xét mất tính cách đáng kinh hãi, bởi vì Con
Người đang được chờ đợi không
là ai khác ngoài Đức Giêsu, Đấng mà Hội Thánh
biết và Đấng xuyên qua dòng lịch sử đã
đi trên nẻo đường họ sẽ đi. Ngoài
ra vị Thiên Chúa mà Người Con sẽ cho thấy vinh
quang lại không là ai khác ngoài Cha của Đức Giêsu “Con
Người”, Đấng nghe các lời cầu nguyện
của Hội Thánh.
+ Kết luận
Lời phản
đối của Phêrô được dùng như một
điển hình. Khi phải đối đầu với
đau khổ, ông suy nghĩ như “loài người”,
tức là duy lý, ích kỷ, đi từ một tình yêu loài
người. Đức Giêsu trả lời bằng một
kiểu đối lập sắc bén. Các tiêu chuẩn này
của loài người không có giá trị gì trước nhan
Thiên Chúa. Các môn đệ phải chấp nhận công
việc của Đức Giêsu và phản ánh lối
sống và sự đau khổ của Người.
Vậy, sống và chịu đau khổ như Đức
Kitô chính là nét tiêu biểu của đời môn đệ,
của Hội Thánh.
Về
phương diện Kitô học, tác giả đã diễn
tả mầu nhiệm Đức Đức Kitô bằng
cách đóng khung lời tuyên xưng của Phêrô về “Con
Thiên Chúa” bằng một phân đoạn nói về Hẳn là
Phêrô đã hiểu Đức Giêsu là ai, nhưng ông không
sẵn sàng sống sự hiểu biết ấy.”Con
Người”. Nếu với lời tuyên xưng của
Phêrô về “Con Thiên Chúa” nhắm giới thiệu tính duy
nhất của Đức Giêsu, mà chỉ Chúa Cha mới có
thể mạc khải cho biết, thì với lời tuyên
xưng về “Con người”, mục đích là giới
thiệu con đường mà vị Thầm phán thế
gian với các môn đệ phải đi xuyên qua sự
khiêm nhường, sự thù nghịch, đau khổ, và
sự sống lại; các môn đệ thông phần vào
tất cả các tình trạng này. Đối với tác
giả Mt, điều đã rõ là không một văn phòng
huấn quyền nào hay một phân khoa thần học nào có
thể là thẩm phán xét đoán tính đúng đắn trong
lời tuyên xưng về Con Thiên Chúa, nhưng chỉ có Con
Người mới có thể xét đoán praxis của các môn
đệ đang tuyên xưng người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Làm tín hữu là
“bước theo Đức Giêsu”. Vừa chào đời, mạng
sống của Người đã bị đe dọa; sau
đó Người đã làm nghề thợ mộc ở
Nadarét trong một thời gian dài. Khi bắt đầu
cuộc đời trần thế, Người đã
bắt đầu đi dưới bóng cái chết: cái
chết càng lúc càng tỏ hiện rõ ràng hơn. Các môn
đệ của Đức Giêsu cần ý thức rằng
họ đang đi theo một vị Thầy đã
chấp nhận một cuộc sống hiểm nghèo, thì
mới đưa lại hạnh phúc cho người khác.
2. Cuộc Khổ
Nạn nằm trong chương trình cứu độ: đây là điều “cần
thiết”, tức thuộc về kế hoạch của
Thiên Chúa nhằm cứu độ loài người. Đây
là phần thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, “mới
mẻ”
nhất của tâm hồn Đức Giêsu và của sứ
mạng Người. Nhưng đây cũng là lý do từ
bao đời vẫn gây nên cớ vấp phạm: mầu
nhiệm này vừa là cớ vấp phạm đối
với thế giới Do Thái, và cũng là đề tài gây
thắc mắc cho Giáo Hội tiên khởi cũng như cho
Giáo Hội ngày hôm nay và ngày mai nữa. Đấy đã là
vấn đề của sách Gióp: sau thời Lưu đày,
Israel đã tự hỏi về ý nghĩa của
“đức công chính” của Thiên Chúa. Nói cách khác, làm dân
được tuyển chọn, dân của Thiên Chúa, làm
đối tượng của tình yêu Người, nghĩa
là gì? Nhờ mạc khải của Đức Giêsu, chúng ta
thấy điều mà sách Gióp còn coi như một ngoại
lệ (= đau khổ của người công chính), đã
trở thành tiêu chuẩn: tình yêu của Thiên Chúa đi qua
Thập giá.
3. Kinh nghiệm của
Phêrô rất quý cho chúng ta. Chúng ta rất mong manh, hay thay đổi, mà lại
dễ ảo tưởng là mình “trước sau như
một”. Một tư tưởng thánh thiện có
trước, phù hợp với tư tưởng của
Thiên Chúa, không bảo đảm là tư tưởng
tiếp theo cũng thánh thiện, nếu chúng ta không quan tâm
tìm biết ý muốn của Thiên Chúa. Do đó, phải
biết ngờ vực chính mình, đồng thời không
thất vọng về những mâu thuẫn nhận ra
nơi bản thân.
4. Nên đề phòng
một cách hiểu méo mó về thần học thập giá: đau khổ trở thành mục
tiêu, một giá trị tự nó thay vì chỉ là một
phương tiện, một con đường đưa
tới giải thoát. Người ta hiểu Tin Mừng
chỉ nói về hy sinh, từ bỏ, hãm mình, chứ không
nói đến niềm vui sướng hân hoan, sự vui
thỏa (coi đây là những điều xấu!). Thật
ra, đau khổ không bao giờ được nâng lên hàng
“sự thiẹn Kitô giáo” cả. Bổn phận của
người Kitô hữu không phải là dạy chịu
đau khổ, nhưng là dạy sống; không phải là
dạy tích lũy các thiếu thốn, từ bỏ, hy sinh,
nhưng là loại trừ chính những nguyên nhân gây ra
những điều đó. Mục tiêu của con
người là hạnh phúc, ơn gọi của con
người là thực hiện một thiên đàng trên trái
đất trước khi đạt tới thiên đàng
trên trời. Đau khổ, hy sinh, đau đớn là cái
giá phải trả để có niềm vui mà người
Kitô hữu được mời gọi chinh phục cho
được. Điểm nhắm của ngươi Kitô
hữu thì ở trên cao, nhưng để đến
được đó, phải chấp nhận vượt
qua một con đường dốc gian khổ. Phải hy
sinh một cái gì đó để không đánh mất
điều chính yếu. Thiên Chúa không muốn con cái Ngài
phải đau khổ, nhưng Ngài có thể yêu cầu họ
chấp nhận đau khổ, nếu đó là nguồn làm
phát sinh niềm vui cho kẻ khác.
|