Những bia đá
niềm tin.
Đến
viếng mộ cha Trương Bửu Diệp ở
Tắc Sậy, Cà Mau, hay toà thánh Martin ở nhà thờ Ba
Chuông, Sàigòn, người ta thấy những tấm bảng
đá gắn đầy tường. Phần đông
người tạ ơn đề tên gọi, không có tên
thánh, chứng tỏ người lương
được ơn cứu giúp nhiều hơn
người Công giáo.
Tại
sao vậy?
Chúng
ta thật khó trả lời. Có lẽ câu trả lời
của ta là: Ta đã được nhiều ơn Chúa
rồi. Còn họ bây giờ mới được! Có
lẽ Chúa muốn lôi cuốn họ trở về với
Chúa, nên cho họ được ơn cứu giúp rõ ràng.
Không,
đó là câu trả lời của ta, ngầm chứa
một sự tự phụ, một sự bào chữa, cho
mình là hơn người ngoại.
Chỉ
có Chúa mới trả lời thật chính xác: “Lòng
tin của bà mạnh thật, bà muốn sao
được vậy, ngay lúc đó con bà được
khỏi quỷ ám” (Mt. 15,18). Thế là quá rõ: họ
được ơn cứu giúp chính vì họ có lòng tin
mạnh thật. Còn ta, ta không được ơn cứu
giúp, vì ta kém lòng tin, không xứng đáng nhận
được ơn Chúa.
Ơn
Chúa dồi dào cho mọi người, như Chúa Giêsu đã
nói: “Ta đến cho họ được sống và
được sống dồi dào” Người còn giải
thích bằng những hình ảnh rất rõ: “Thiên Chúa đã
cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ xấu
cũng như kẻ tốt, và cho mưa xuống trên
người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt.
5, 45).
Ơn
Chúa tràn ngập khắp vũ trụ như ánh sáng mặt
trời, nhuần thấm cùng cõi trái đất như
mưa sa. Công thần Nguyễn Công Trứ ở thời
cấm đạo khốc liệt mà còn nhận thấy
“Của trời trăng gió kho vô tận” hay: “Của
trời muôn sự để chung, hơn nhau một tiếng
anh hùng mà thôi”. Đúng vậy, của trời thì vô tận
chỉ hơn nhau có lòng tin anh hùng mà người này thì
được ơn dồi dào, người kia thì không
được, chứ không phải mang danh có đạo là
được ơn. Tiên tri Isaia đã được Chúa
tỏ cho biết rõ: Những người ngoại bang nào
gắn bó cùng Chúa, phụng sự và yêu mến danh
Người, thì được nên tôi tớ của
Người... “Ta sẽ dẫn họ lên núi thánh của Ta
và cho họ hân hoan bước vào nhà cầu nguyện
của Ta…” (Bài I - Is. 56, 6-7).
Thế
là Thiên Chúa không tây vị ai, chỉ nể vì: “Bà có lòng tin
mạnh thật”. Đó là lý do chính xác nhất mà Chúa Giêsu
đã tuyên bố rõ ràng.
Lý
do thứ hai tuy Chúa Giêsu không nói ra, nhưng sau này Thánh Phaolô
đã nêu trong bài đọc II: “Trước kia anh em không
vâng phục Thiên Chúa, nay được xót thương...
để cho chính họ cũng được xót
thương” (Rm. 15, 30- 31). Họ đây là dân mới có
đạo, tức là: dân ngoại đã có lòng tin mạnh
mẽ nên được ơn Thiên Chúa thương xót,
để cho dân Do Thái, dân đã có đạo lâu
đời, thấy mình không được ơn
thương xót cứu giúp vì kém lòng tin, nên phải lo có lòng
tin mạnh mẽ mới mong được ơn
thương xót của Chúa.
Lòng thương xót của Chúa đối với dân
ngoại là một đòn bẩy gián tiếp bẩy dân có
đạo noi gương lòng tin
mạnh thật của dân ngoại, đánh thức lòng tin
của ta, khuyến khích ta gia tăng lòng tin thêm mạnh
mẽ, mới mong nhận được ơn cứu giúp
như bà dân ngoại xứ Canaan.
Lòng
tin mạnh thật của bà thế nào?.
Trước
nhất, bà cầu nguyện với Đức Giêsu bằng
nhận biết Ngài là con vua David: “Lạy Ngài là con vua David”.
Người Do Thái mong đợi con vua David đến
giải phóng đế quốc hơn là đến cứu
độ. Vì thế khi Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem họ
đã hoan hô Ngài như một David chiến thắng dũng
tướng Goliad (Mt. 21, 9). Còn bà dân ngoại, bà tin
Đức Giêsu là Đấng Cứu thế đến
“Đem Tin Mừng cho người khốn khó, ân xá cho
kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy,
cho kẻ áp bức được tự do, loan báo năm
hồng ân của Chúa” (Lc. 4, 18-19). Lòng tin của bà giống
như lòng tin của bà góa tại Sarepta thời tiên tri Elisa
và Naaman người Syri thời tiên tri Elisa.
Như
vậy lòng tin của bà vào lòng thương của Thiên Chúa,
chứ không phải vào tài thao lược của một
tướng quân như David. Bà kêu khấn: “Xin dủ lòng
thương tôi”. Chính vì tin vào lòng thương xót của
Chúa, lòng thương không giới hạn, vượt biên
giới Israel mà bà đã đến với Đức Giêsu,
dù bà biết mình là dân ngoại và dù Người nói chỉ
đến với chiên lạc nhà Israel.
Thứ
đến, lòng tin mạnh thật của bà tỏ ra
rất kiên trì và khiêm tốn. Bà kiên trì cứ theo sau các Ngài
đến nỗi môn đệ không thể chịu
đựng nổi nữa. Có lẽ các ông đã
đuổi bà đi nhiều lần mà không xong, đành
phải xin Thầy bảo bà ấy đi đi. Nhưng bà
quyết tâm kêu nài bằng được, đến
nỗi Ngài phải nặng lời xỉ vả theo thói dân
Do Thái khinh bỉ dân ngoại coi họ như chó má: “Không
được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó
con”. Bà đang sụp lạy trước mặt
Người hơn con chó nằm chực chờ vụn bánh
trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã
thưa lại: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ
chó con lại được ăn những vụn bánh trên
bàn rơi xuống”. Thật đáng kinh ngạc! Không ai trong
dân Israel hay dân có đạo lại khiêm tốn, hạ mình
xuống đến thế trước mặt Ngài.
Lòng
tin khiêm tốn mạnh thật của bà đã sai khiến
được lòng thương của Thiên Chúa: “Này bà, lòng
tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì
được vậy”. Ngay lúc đó con gái của bà
được khỏi quỷ ám.
Lạy
Chúa, xin cho con biết noi gương lòng tin mạnh mẽ,
kiên trì, khiêm tốn sâu thẳm của bà dân ngoại xứ
Canaan. Con đã quá quen với ơn phúc tràn đầy
của Chúa, đúng là “gần chùa gọi bụt bằng
anh”. Xin đánh thức lòng con biết nhiệt tâm tin
mạnh mẽ vào lòng thương xót vô bờ của Chúa,
biết luôn luôn sấp mình trước tôn nhân hiền
từ của Chúa để van nài: Lạy Chúa, xin cứu
con như cứu lấy con bà Canaan xưa khỏi bị
khổ sở của quỷ ám.
|