CHUYỆN
TO – NHỎ
Trong
cuộc sống có nhiều thứ to – nhỏ,
cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có
những thứ to mà lại chỉ là nhỏ,
có những thứ nhỏ mà lại hóa
to. Có những cái đầu to mà chứa
những ý tưởng nhỏ, có những
chiếc cặp nhỏ mà chứa những dự
án to, có những dự án to mà
hiệu quả lại nhỏ, có những ông
nhỏ mà quyền lại to, mối nguy nhỏ
mà mối hại to, lỗ rỉ nhỏ làm
đắm thuyền to,... Cứ thế và cứ
thế!
Là
“người lớn” mà hòa đồng,
khiêm nhường, coi mình là “người
nhỏ”, thế mới là khéo sống
và khôn ngoan, và đó mới đúng
nghĩa “lớn” mà Chúa Giêsu
đề cập. Thật vậy, Chúa Giêsu
đã xác định: “Ai
muốn làm lớn giữa anh em thì phải
làm người phục vụ anh em. Và ai
muốn làm đầu anh em thì phải làm
đầy tớ anh em” (Mt
20:26-27). Chính Ngài đã nêu gương
phục vụ qua việc rửa chân các
môn đệ, đặc biệt là Ngài
vẫn rửa chân cho cả Giuđa mặc dù
Ngài biết đó là kẻ sắp
sửa “bán đứng” Ngài.
Thông
thường, “thùng rỗng” vốn dĩ
“kêu to”, càng rỗng càng kêu
to. Bởi vì cái trống rỗng tuếch
nên nó kêu to lắm; quả bong bóng
cũng thế, nó càng to và càng
rỗng thì càng nổ to!
Có
những “người lớn” thực sự
mà lại hóa “nhỏ bé”. Nếu
không tự thu mình nhỏ lại thì
Thiên Chúa không thể lớn lên
trong chúng ta. Một trong những người
gây “ấn tượng” mạnh mẽ
là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963), người
được mệnh danh là “ông già
tốt lành và nhân từ”.
Khi
chưa làm giáo hoàng, trong ngày nhận
chức thượng phụ Venezia năm 1953,
Thánh Gioan XXIII đã bộc bạch: “Đời
giám mục mà cứ phải ngồi bàn
giấy và làm ngoại giao thì tội
nghiệp quá. Tôi bắt đầu sứ
vụ trực tiếp vào tuổi mà người
khác kết thúc hoạt động của
mình (72 tuổi). Từ nay tôi nghèo hơn
trước, một vị hồng y nghèo lo
giúp người nghèo... Tôi thấy
mình như một bà mẹ nghèo, phải
nuôi một đoàn con đông đảo.
Tôi xuất thân từ giới bình dân.
Cha mẹ tôi là người nghèo. Chúa
đã đưa tôi ra khỏi xóm làng
quê hương, cho tôi chung đường
và kề vai sát cánh với những
người có tín ngưỡng khác
nhau. Bây giờ cũng vậy, tôi không
quan tâm đến những gì gây chia rẽ
mà chỉ quan tâm đến những gì
gây tình đoàn kết. Xin anh chị
em hãy coi tôi như một tôi tớ của
Chúa”.
Không
chỉ vậy, ngài còn đơn sơ tự
bạch: “Sinh
ra nghèo, do cha mẹ nghèo nhưng khả
kính, tôi đặc biệt sung sướng
khi được chết nghèo. Bất luận
tôi đi đâu, nếu ban đêm có
người nào lỡ đường trước
cửa nhà tôi, họ sẽ thấy cửa
sổ tôi luôn có ngọn đèn
sáng. Xin đừng ngại, hãy cứ gõ
cửa. Tôi sẽ không hỏi anh em là
Công Giáo hay không, nhưng chỉ xin
người anh em cứ vào, sẽ có đôi
tay thân ái đón tiếp và tấm
lòng thân thiện nồng hậu rộng
mở”.
Gương
sáng và lớn như thế mà không
soi, lẽ nào lại muốn soi gương mờ
và nhỏ? Chuyện To và Nhỏ hẳn là
có liên quan “chức quyền” –
gồm chức tước và quyền hành.
Chức vụ và chức danh nghe có vẻ
giống nhau, nhưng có phần khác nhau
quan trọng. Chức danh đề cập phẩm
tước, còn chức vụ đề cập
công việc, trách nhiệm và bổn
phận về chức vụ – gọi là
chức phận.
Theo
đó, chức danh không cần có
chuyên môn, nhưng chức vụ cần có
chuyên môn. Danh từ “chức sắc”
thường dùng trong tôn giáo, tức
là nói về những người có
chức vụ nào đó. Người có
chức vụ mà không làm đúng
chức năng thì chỉ là “hữu
danh vô thực”, là “bù nhìn”,
là hình nộm, chẳng khác gì
ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở các
tiệm trang phục). Có “chức” thì
tất nhiên có “vụ” kèm
theo. Loại người “ham Chức, quên
Vụ” thì chẳng làm nên trò
trống gì, đôi khi còn phá
bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta
đây”. Chúa rất ghét loại
người “ta đây” như thế!
Kinh
Thánh Cựu Ước cho biết rằng, viên
quan Sép-na là tể tướng triều
đình (tương tự thủ tướng
ngày nay), được người ta coi là
“người hùng”, nhưng Đức
Chúa tuyên phán thẳng thắn và
rõ ràng: “Ta
sẽ tống ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa
vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ
Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo
thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc
cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ
đem thắt cho nó, quyền bính của
ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó
sẽ là cha đối với cư dân
Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa
khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt
trên vai nó. Nó mở ra thì không
ai đóng được, nó đóng
lại thì không ai mở được. Ta
sẽ làm cho nó vững chắc như đinh
đóng cột, nó sẽ nên như
ngai vinh hiển cho nhà cha nó”
(Is 22:19-23). Quyền “tháo cởi” này
trong Cựu Ước có liên quan quyền
“tháo cởi” trong Tân Ước:
Bí tích Hòa Giải.
Chắc
chắn Thiên Chúa là Đấng từ
bi và nhân hậu, giàu lòng xót
thương, nhưng Ngài cũng rất thẳng
thắn và dứt khoát. Ngài đã
cho chúng ta thời gian để sửa đổi,
nếu không chịu chấn chỉnh, chúng
ta sẽ bị Ngài tước hết. Có
lần chính Chúa Giêsu đã minh
định: “Ai
đã có thì được cho thêm,
và sẽ có dư thừa; còn ai không
có thì ngay cái đang có cũng sẽ
bị lấy mất”
(Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26). Một lần
khác, Ngài nói rõ: “Cây
nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự
trên trời đã không trồng thì
sẽ bị nhổ đi”
(Mt 15:13). Thật là đáng sợ biết
bao!
Nhưng
trái lại, nếu người có lỗi
biết sám hối và sửa sai, Chúa
sẵn sàng tha thứ và phục hồi
nguyên trạng: “Như
đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném
thật xa ta”
(Tv 103:12). Sau khi Ép-ra-im sám hối, Thiên
Chúa nói về Ép-ra-im: “Mỗi
lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ
thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn
thức, Ta thương nó, thương nó
thật nhiều”(Gr
31:20).
Ôi,
thật là trên cả tuyệt vời! Và
Thiên Chúa cũng luôn ưu ái với
mỗi tội nhân chúng ta y như vậy.
Hãy vững lòng tin, phải “tin”
chứ đừng “tưởng”.
Hiền
nhân Khổng Tử xác định: “Có
lỗi mà không sửa mới thành ra
có lỗi”.
Tuy nhiên, Lời Chúa có lúc làm
chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm
chúng ta đau điếng, nhưng tất cả
vẫn là Hồng Ân, Ngài luôn lắng
nghe và thấu hiểu nỗi lòng của
mọi người. Thánh Vịnh gia đã
thành tâm thân thưa: “Lạy
Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài
đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư
vị thiên thần, xin đàn ca kính
Chúa, hướng về đền thánh,
con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ
danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín
yêu thương, đã đề cao danh
thánh và lời hứa của Ngài trên
tất cả mọi sự”
(Tv 138:1-2).
Thánh
nhân nào cũng có một quá khứ
đen tối, và tội nhân nào cũng
có một tương lai xán lạn. Và
dù cho chúng ta có thế nào thì
cũng vẫn cần tâm tình tạ ơn,
một động thái rất cần thiết
vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa
mặc nhiên: “Ngày
con kêu cứu, Chúa đã thương
đáp lại, đã gia tăng nghị
lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi
đế vương dưới trần đều
cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài
phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường
lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại
dường bao!”
(Tv 138:3-5).
Và
còn hơn thế nữa, Thiên Chúa làm
cho chúng ta đi từ ngạc nhiên này
tới ngạc nhiên khác, và chúng
ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương
xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa
tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến
kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn
ngông nghênh, từ xa Ngài đã
biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ
hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn
đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện, xin
đừng bỏ dở dang”
(Tv 138:6 và 8). Được thương xót
nhiều hay ít là tùy vào niềm
tin của mỗi người: “Ai
tin thế nào thì được như
vậy”
(Mt
8:13;
Mt
9:29).
Vừa
đặt vấn đề vừa giải thích,
Thánh Phaolô minh định: “Sự
giàu có, khôn ngoan và thông suốt
của Thiên Chúa sâu thẳm dường
nào! Quyết định của Người,
ai dò cho thấu! Đường lối của
Người, ai theo dõi được! Thật
vậy, ai đã biết tư tưởng của
Chúa? Ai đã làm cố vấn cho
Người? Ai đã cho Người trước,
để Người phải trả lại sau? Vì
muôn vật đều do Người mà có,
nhờ Người mà tồn tại và
quy hướng về Người. Xin tôn vinh
Thiên Chúa đến muôn đời!
Amen”
(Rm 11:33-36). Những vấn đề như thế
này cũng vẫn còn nóng bỏng và
nhức nhối ở mọi thời đại. Đó
cũng là những câu hỏi để mỗi
chúng ta tự trắc nghiệm và tự
cân-đo-đong-đếm mức độ
tín thác của mình vào Thiên
Chúa.
Có
lẽ đây là dạng câu hỏi
không xa lạ gì: “Tại
sao tôi tin vào Thiên Chúa? Ngài là
ai mà tôi tin?”.
Đó là nghi vấn người ta vẫn
luôn đặt ra ở mọi thời đại.
Người vô thần cho rằng người
hữu thần (cụ thể là Kitô hữu)
chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ
dạ nên bị tôn giáo “ru ngủ”
và mê hoặc. Người ta cũng muốn
dùng các tiến bộ khoa học hoặc
bất cứ thứ gì khác để
chứng minh rằng “không có Thiên
Chúa”, nhưng tất cả đều vô
vọng. Đức Tin cần có lý trí,
nhưng phải là lý trí “trong
suốt”, dùng lý trí để cố
ý chối bỏ và không tin thì
hoàn toàn bất trị – nói khôi
hài theo ngôn ngữ thời @ là
“bó-tay-chấm-com” (BoTay.com). Vâng,
chắc là phải “bó tay chống cằm”
mà suy tư và ngán ngẩm sự đời
thôi! Người vô thần càng cố
tìm cách chối bỏ Thiên Chúa
thì họ càng đi vào ngõ cụt,
hoàn toàn bế tắc. Thật vậy,
chính một Saolê giỏi giang và bạo
tàn đến thế, nhưng rồi cũng
đành phải “bó tay”, chịu
đầu hàng Thiên Chúa, để rồi
trở nên một con người hoàn toàn
khác, một Phaolô thuần hóa và
nhiệt thành rao giảng
Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.
Một sự đối lập rất “thuận
chiều”, một dạng nghịch-lý-thuận.
Ngay
trước thời điểm Chúa Giêsu
công khai sứ vụ, Ngôn sứ Gioan phải
chịu cảnh tù đày nên ông
đã bảo đệ tử đến gặp
Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có
phải là Đấng phải đến hay
còn phải đợi ai khác. Ngài
không trả lời rõ ràng mà chỉ
nói: “Các
anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những
điều mắt thấy tai nghe: Người mù
xem thấy, kẻ què được đi,
người cùi được sạch, kẻ
điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe
Tin Mừng, và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi”
(Mt 11:4-6). Rồi trong lúc xét xử Chúa
Giêsu, vị thượng tế cũng muốn
thể hiện quyền bính mà hỏi:
“Nhân
danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền
cho ông phải nói cho chúng tôi biết:
ông có phải là Đấng Kitô
Con Thiên Chúa không?” (Mt
26:63; Mc 14:61). Chúa Giêsu nói: “Chính
ngài vừa nói” (Mt
64). Thánh Luca thuật lại chi tiết hơn
về câu trả lời của Chúa Giêsu:
“Tôi
có nói với các ông, các ông
cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các
ông cũng chẳng trả lời”
(Lc 22:67-68). Và rất có thể chúng
ta cũng đã hoặc đang có những
lúc tự hỏi về Thiên Chúa như
vậy. Cũng có thể đức tin của
chúng ta là “theo thói quen” chứ
chưa thấm sâu, ở ngọn và ở
cành chứ chưa hẳn tới gốc rễ.
Qua
trình thuật Mt 16:13-20, Thánh Mátthêu
cho biết: Một hôm, khi Đức Giêsu
đến vùng kế cận thành Xêdarê
Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ
xem người ta nói Ngài là ai. Hỏi
để mà hỏi vậy thôi, chứ
Ngài biết rõ mười mươi rồi.
Ngài hỏi là để người khác
tự xác tín. Và rồi các ông
cho Ngài biết: “Kẻ
thì nói là ông Gioan Tẩy Giả,
kẻ thì bảo là ông Êlia, có
người lại cho là ông Giêrêmia
hay một trong các vị ngôn sứ”.
Mỗi người mỗi ý, mỗi người
mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi
Ngài là một người “đặc
biệt”, rất đặc biệt.
Ngay
sau đó, Ngài hỏi chính các đệ
tử của mình xem họ nhìn nhận
Ngài như thế nào. Ông Simôn
Phêrô thưa ngay: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa
hằng sống”
(Mt 16:16). Đức Giêsu vui mừng cho biết:
“Này
anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là
người có phúc, vì không phải
phàm nhân mặc khải cho anh điều
ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng
ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa
là Tảng Đá, trên tảng đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của
Thầy, và quyền lực tử thần sẽ
không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh
chìa khoá Nước Trời: dưới
đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời cũng sẽ cầm buộc như
vậy; dưới đất, anh tháo cởi
điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy”
(Mt 16:17-19). Ý Chúa quan phòng và tiền
định vô cùng kỳ diệu, chúng
ta chẳng làm sao suy thấu. Nghe ông Phêrô
nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn
đệ không được nói cho ai biết
Ngài là Đấng Kitô.
Và
kể từ đó, Ngư phủ Phêrô
đã trở thành Giáo hoàng tiên
khởi với quyền tối thượng. Chiếc
chìa khóa mà Sư phụ Giêsu trao
cho đệ tử Phêrô là
Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ,
là chiếc Chìa Khóa đặc biệt
có thể mở Cửa Nước Trời, để
mở “lối vào” cho các hối
nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù
để giam hãm người khác. Có
chức thì có quyền, nhưng cũng đầy
bổn phận và trách nhiệm. Quyền
cũng đi với Hành, gọi là quyền
hành, thế nên đôi khi những người
có quyền thì cũng dễ lạm dụng
rồi khoái “hành” người
khác. Việt ngữ thâm thúy thật!
Có
một câu chuyện về một Tượng
Chịu Nạn rất đặc biệt, liên
quan Bàn Tay của Chúa. Chuyện kể rằng
tại một nguyện đường của tu
viện St. Ann & St. Joseph ở Cordoba, Tây Ban
Nha, có một Thánh Giá cổ được
giáo hữu rất tôn sùng: Thánh
Giá tha tội. Tượng này đặc
biệt là có cánh tay phải rời
khỏi Thập Giá và hạ thấp xuống.
Một
hôm, có một tội nhân đến
xưng tội với linh mục ngay dưới
chân Thánh Giá này. Như thường
lệ, mỗi khi giải tội cho một hối
nhân mắc nhiều tội trọng, linh mục
này thường tỏ ra rất nghiêm khắc,
ra việc đền tội nặng và ngăm
đe nhiều điều.
Không
bao lâu, người đó sa ngã và
lại đến xưng tội. Linh mục đe
dọa rằng đó là lần cuối
cùng giải tội cho người đó.
Sau một thời gian, anh ta lại đến xưng
tội với linh mục cũng ở bên Thánh
Giá này, nhưng linh mục kia dứt khoát
nói: “Ông
đừng có đùa với Chúa. Tôi
không thể ban phép giải tội cho ông
nữa”.
Lạ
thay, khi linh mục vừa khước từ hối
nhân thì Chúa Giêsu liền rút
tay phải ra khỏi Thánh Giá và ban
phép lành cho hối nhân, rồi Chúa
Giêsu thì thầm từ trên Thánh
Giá: “Chính
Ta là người đã đổ máu
ra cho người này, chứ không phải
ngươi!”.
Rất đáng “giật mình” lắm,
bởi vì “khí cụ” đã
dám lộng hành vì lạm dụng
“quyền” để “hành”
người khác!
Chúa
Giêsu trao quyền “tháo cởi”
không phải là thích thì cởi,
không thích thì thôi. Thế nhưng
điều đó đã bị người
ta hiểu sai và lạm dụng. Bài học
“tha bảy mươi lần bảy” (Mt
18:21-22) và dụ ngôn “tên mắc nợ
không biết thương xót” (Mt
18:23-25) vẫn còn đó, vẫn mới
tinh và vẫn nóng hổi!
Bản
tính con người rất dễ háo
danh
và hám
lợi,
vì có “cái danh” thì thường
có kèm theo “cái lợi”. Chức
danh càng cao, bổng lộc càng nhiều.
Điều này xảy ra trong xã hội thì
quá rõ ràng, từ cổ chí kim và
từ Đông sang Tây đều có,
nhưng ngay trong Giáo hội cũng có những
người không thoát khỏi vòng kiềm
tỏa của DANH và LỢI. Người ta chú
trọng “cái danh” mà quên “cái
phận”, trong khi “cái phận” cần
thiết hơn “cái danh”. Thật vậy,
Đức Kitô đã động viên
người ta làm “ngược đời”
chứ không theo lẽ thường: “Nhiệt
tâm phục vụ, không mong hưởng thụ”
(x. Mt 20:28). Hai động thái trái ngược
mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Hẳn
là nhiều người còn nhớ điều
thú vị này: Thứ Sáu 1-8-2014, ĐGH
Phanxicô (TGM Jorge Mario Bergoglio ngày nào luôn
gần gũi đám dân nghèo) đã
bất ngờ đến ăn trưa tại một
tiệm ăn bình dân dành cho các
công nhân áo xanh và những người
lao công trong khu công nghiệp nhỏ ở
Vatican. Ngài vẫn tự cầm khay và đứng
xếp hàng chờ đến lượt mình
nhận thức ăn nơi quầy thức ăn
làm sẵn, giống như mọi người,
không nhận quyền ưu tiên nào, đi
đây đó thì tự xách cặp.
Điều này chứng tỏ lời ngài
là thật đối với câu nói
của ngài đã phát biểu trước
đám đông giới trẻ: “Tôi
không muốn làm giáo hoàng đâu”.
Ai
cũng biết rằng Giáo hoàng là
“vua” của Công giáo, tức là
“ông lớn” thực sự, thế
nhưng “ông lớn” lại thích
làm “ông nhỏ”, tự phục vụ
chứ không cần người khác phục
vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu”
lại muốn biến thành “ông lớn”,
chẳng khác gì truyện thơ ngụ
ngôn “Ếch Muốn Bằng Bò”
(La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf) của
Jean de La Fontaine (Pháp). Vừa khôi hài,
vừa đau điếng!
Cổ
nhân nói: “Tam
nhân đồng hành tất hữu ngã
sư yên”
(Trong ba người cũng có một người
làm thầy). Tất nhiên là thế
thôi! Tự nhiên, chức vụ là để
phục vụ chứ không để tự tôn
hoặc lên mặt với người khác.
Mỗi người đều được Thiên
Chúa mời gọi hoạt động trong một
lĩnh vực nào đó để cộng
tác với Ngài mà hoàn tất công
trình cứu độ của Thiên Chúa,
không ai được phép “ngồi mát
ăn bát vàng”, rung đùi hưởng
nhàn. Người ta thích “nói hay”
về sự phục vụ nhưng chưa chắc
muốn phục vụ. Người ta cũng leo lẻo
nói rằng “lao động là vinh
quang”, nhưng rồi có mấy ai thích
vinh quang mà chỉ ưa ung dung tự tại,
chỉ tay năm ngón, và... hốt bạc
tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy
bỏ túi. Thế là ô-kê. Xong. Đời
cũng thế mà đạo cũng vậy!
Nói
được thì phải làm được,
đừng nói trước rồi bước
không qua, đó là “lẻo mép”,
là ba hoa, là giả hình. Viết được
thì cũng phải làm được, đừng
viết lắm mà nắm không xong, đó
là “lẻo bút”, là phét
lác. Dạng “lẻo” nào cũng
chết. Chết chắc! Vì đó là
người có “máu” Pharisêu,
mang gien-đạo-đức-giả, đúng
như Ngôn sứ Isaia đã nói trước:
“Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng
miệng, còn lòng chúng thì lại
xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì
cũng vô ích, vì giáo lý chúng
giảng dạy chỉ là giới luật phàm
nhân”
(Mt 15:8-9). Dạng người như vậy “được”
Chúa Giêsu gọi là “mồ mả
tô vôi” (Mt 23:27). Một biệt hiệu
(nickname) nghe rất “kêu”, nhưng lại
cảm thấy “nhột gáy” quá
chừng! Thánh Phaolô cũng “phang”
thẳng: “Lạ
gì đâu! Vì chính Satan cũng ĐỘI
LỐT thiên thần sáng láng! Vậy
có gì là khác thường khi kẻ
phục vụ nó ĐỘI LỐT người
phục vụ sự công chính”
(2 Cr 11:14-15).
Thiết
tưởng cần ghi nhớ rạch ròi để
đừng ảo tưởng: Trước mặt
Thiên Chúa, ai cũng bình đẳng,
chẳng ai hơn hoặc kém ai, và mọi
người là con cái Chúa thì tất
nhiên cũng là anh em với nhau (x. Mt 23:8).
Chắc chắn Chúa không quan tâm cái
CHỨC mà chỉ xét đến cái
VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén,…
thậm chí là nửa nén cũng không
thành vấn đề, quan trọng là SINH
LỜI hay không. Vậy thôi! Thế nhưng
ở đời cũng “lắm chuyện”.
Không nói thì người ta bảo hèn
nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn
tàn. Dám nói thẳng nói thật
thì bị ghét bỏ, bị trù dập,
bị xa lánh. Dốt nát thì bị
KHINH, thông minh thì bị GHÉT. Chúa
Giêsu cũng chỉ vì thẳng-thắn-thật-thà
nên thiệt thòi, bị mỉa mai đủ
thứ, và rồi còn bị giết chết
thê thảm!
Rất
cần can đảm, tức là “dám”
nhìn vào sự thật và đối
mặt với kẻ giả nhân giả nghĩa.
Dù sao thì cũng PHẢI cứ là
chính mình, không nịnh bợ, luồn
cúi hoặc khép nép trước bất
cứ ai – dù ông to hay bà nhỏ,
nhưng cũng không hống hách hoặc
khinh miệt bất cứ ai. Cứ bình thường!
Thánh
Phaolô cho biết: “Kẻ
trồng người tưới đều NHƯ
NHAU, nhưng ai nấy sẽ được thù
lao theo công khó của mình”
(1 Cr 3:8). Thiên Chúa muốn chúng ta cộng
tác với Ngài, mỗi người mỗi
việc, tùy khả năng Chúa ban. Đó
là Ngài chia sẻ công việc để
chúng ta làm mà có thêm công
trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ
Ngài đâu cần gì chúng ta góp
một tay. ĐGH danh dự Benedict XVI, khi còn
đương nhiệm, đã nhận xét:
“Kitô
giáo không là triết lý mới
hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ
là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ
Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ
riêng với Đức Kitô, Đấng phục
sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô
hữu”.
Con
người luôn khắc khoải về thân
phận hoặc số phận, luôn thao thức
về chính mình, một hạt bụi nhỏ
nhoi mà đầy nỗi gian truân, nỗi
đọa đày. Cố NS Trịnh Công
Sơn đã tự hỏi: “Hạt
bụi nào hóa kiếp thân tôi?”
(Cát Bụi). Nhưng ông không thể
giải đáp, nên ông tự nhủ và
nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục tự
vấn: “Đừng
tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt
vọng... Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng
tuyệt vọng... Tôi là ai mà còn
ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn
trần gian thế? Tôi là ai, là ai, là
ai mà yêu quá đời này?”
(Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng). Cuộc
đời như một chu kỳ lẩn quẩn.
Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi
lòng Thánh Augustinô cũng luôn như
biển động: “Linh
hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới
khi được nghỉ ngơi trong Chúa”.
Cuối cùng, Thánh Vịnh gia kết luận:
“Chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi
mới được nghỉ ngơi yên hàn”
(Tv 62:2).
Đó
là một quá trình gian nan, chiến đấu
với nhiều thứ và phải cố gắng
vượt lên chính mình. Ước gì
mỗi chúng ta khả dĩ xác định
được như vậy, đồng thời
có thể nói như Ngôn sứ Êlia:
“Lòng
nhiệt thành đối với Chúa nung
nấu con”
(1 V 19:14). Biết Chúa và biết mình,
điều nào cũng khó, nhưng cần
phải biết Chúa để có thể
biết mình. Vâng, Thánh tiến sĩ
Augustinô đã cầu nguyện: “Lạy
Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết
con – Domine, noverim Te, noverim me”.
Chính Thánh Augustinô cũng đã tỏ
ra hối tiếc mà thú nhận: “Con
yêu Chúa quá muộn màng”.
Biết Chúa và được yêu Chúa
thì quả là đại phúc!
Cả
đời Chúa Giêsu chỉ chạnh lòng
thương người ta, chẳng chơi ép
ai bao giờ, và Ngài còn là
người-nghèo-chính-hiệu, thế nên
Ngài rất yêu thương người
nghèo, Ngài nghèo tột cùng: SINH
nơi hang chiên, SỐNG ở ngoài đường,
và CHẾT trần trụi trên đồi
hoang. Thật vậy, từ ngàn xưa Thiên
Chúa đã minh định: “Ta
KHÔNG hề ở trong một NGÔI NHÀ,
nhưng Ta đã nay đây mai đó
trong một CÁI LỀU và trong một NHÀ
TẠM”
(2 Sm 7:6). Còn chúng ta, thế nào là
Nhỏ và thế nào là To? CHỨC
(tước) sinh ra QUYỀN (lực), sinh ra HÀNH
(hạ). Quả là TO thật!
Lạy
Thiên Chúa giàu lòng thương xót,
xin giúp con chân nhận Ngài là Thánh
Phụ, tuyên xưng Ngài là Thiên
Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp
con nhận biết chính mình để khả
dĩ sống khiêm nhu đúng mức, chứ
không ảo tưởng mà kiêu ngạo,
giả hình, đồng thời cũng biết
sống đúng bậc mình, quyết tâm
sinh lời theo “số vốn” Ngài trao
cho con. Xin cho những người có chức có
quyền đừng “hành hạ” người
khác, nhưng biết dùng quyền để
yêu thương và dẫn đưa người
khác đến với Chúa. Con cầu xin
nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng
cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|