Lòng tin.
Trước Công
đồng Vatican II, những người tín hữu có
đời sống luân lý công khai bê bối, nhưng không
chịu ăn năn trở lại, khi chết
thường bị các cha sở cấm không cho chôn cất
trong nghĩa trang của nhà thờ, vì nghĩa trang Công giáo
là phần đất đã được thánh hiến,
chỉ dành cho những người tín hữu có đời
sống xứng đáng mà thôi.
Có một ông cụ già sống bê bối
về luân lý, say sưa cờ bạc, ăn ở lung tung… Khi chết, cha sở ra
lệnh cho người nhà phải chôn cất ông ở ngoài
hàng rào của nghĩa trang trong xứ. Sau nhiều
năm, cha sở đã đổi đi nơi khác,
người con gái của ông già trở về nhà thờ
cũ để thăm mộ và xin lễ cầu nguyện
cho ông. Bà đi kiếm mộ cha mình ở bên
ngoài hàng rào nghĩa trang nhưng chẳng thấy. Bà đành phải đi tìm người trông coi
nghĩa địa ngày xưa để hỏi xem
chuyện gì đã xảy ra. Người trông coi
nghĩa địa đã dẫn bà ra đúng mộ của
thân phụ, nhưng đã nằm ở bên trong hàng rào
nghĩa trang. Bà ngạc nhiên hỏi, “Tại sao ông lại
dời mộ của thân phụ tôi?” Người trông coi
nghĩa trang mỉm cười trả lời: “Chúng tôi
đã không dời mộ của ông cụ, nhưng vì bên
trong nghĩa trang không còn đủ chỗ chôn cất
nữa, nên phải mở rộng nghĩa trang ra. Chúng tôi chỉ dời hàng rào ra mà thôi”.
Đây là điều
Chúa Giêsu đã làm trong bài Phúc Âm hôm nay, khi chữa bệnh cho
con gái của người đàn bà xứ Canaan. Người đàn
bà Canaan đến với
Chúa là người ở bên ngoài những hàng rào ranh giới
do sự kỳ thị phân biệt của xã hội.
Đối với
những người Do thái, sự trong sạch và nhơ
bẩn được phân định rõ ràng. Nếu
là người Do Thái và biểu tỏ đức tin qua
việc giữ luật Do Thái, người đó
được coi là trong sạch. Nếu là ngoại
kiều, hay là Do Thái mà không tuân giữ luật lệ Do Thái,
đó là người dơ bẩn. Sự phân định
ranh giới này rất đơn giản và rõ ràng!
Có hai điều làm
cho người đàn bà xứ Canaan bị loại
trừ trong bậc thang phân định giá trị của
người Do Thái: đàn bà và dân ngoại. Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người
đàn bà bị lãng quên. Trong bài Phúc Âm Mt 14, 13-21, Chúa Giêsu
hoá bánh ra nhiều cho 5000 người ăn uống no nê,
“không kể đàn bà và trẻ con”. Đàn bà và trẻ con
không được kể đến, coi như không có giá
trị. Hôm nay một lần nữa, thánh
Matthêu nói đến người đàn bà xứ Canaan, mà
không nhắc đến tên của bà. Điều
này có ý nghĩa. Chắc chắn bà
phải có tên. Nhưng không
được nhắc đến tên chứng tỏ bà
đã bị xã hội thời đó khinh bỉ và loại
trừ.
Điểm thứ
hai, bà là người dân ngoại xứ Canaan. Đối
với người Do Thái, dân ngoại là xấu.
Người Canaan, kẻ thù truyền kiếp của
tổ tiên người Do Thái, còn xấu hơn nữa.
“Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó”. Chúa Giêsu đã sử dụng phong tục và lối
nói quen thuộc của người Do Thái để so sánh
những người dân ngoại giống như chó. Xã hội Do Thái thời xưa không cưng
chiều và quý trọng chó như xã hội tây phương
thời nay. Gọi ai bằng chó là
một điều sỉ nhục. Vì chó
liếm những vết ghẻ chốc, và mang bệnh
truyền nhiễm như trong câu chuyện người phú
hộ và ông Ladarô.
Theo William Barclay,
bởi lòng kiêu căng, người Do Thái đã gọi dân
ngoại là “những con chó ngoại đạo”, “những
con chó vô tín ngưỡng”. Sau này họ gọi những
người theo Kitô giáo là “những con
chó Kiô hữu”. Một sự diễn tả đầy khinh
bỉ! Trong cuốn tự thuật của Mahatma Gandhi,
vị thánh của người Ấn Độ giáo, ông
kể lại rằng trong thời gian còn là học sinh, ông
đã đọc Phúc Âm và nhìn thấy trong những lời
giảng dạy của Chúa Giêsu câu trả lời cho
vấn nạn lớn lao của người dân Ấn
Độ phải giải quyết với chế
độ đẳng cấp. Đang khi suy nghĩ một
cách nghiêm chỉnh về đức tin Kitô giáo, một
buổi sáng Chúa nhật, Gandhi bước vào nhà thờ
với ý định sẽ bàn thảo với mục sư
về tư tưởng của mình. Tuy nhiên,
vừa bước vào trong nhà thờ, người dẫn
chỗ ngồi đã từ khước không tìm chỗ và
đề nghị ông nên bước ra ngoài đi
đến nhà thờ dành riêng cho giai cấp của ông.
Gandhi đã bỏ nhà thờ và không bao giờ
trở lại nữa. Sau này ông nói: “Nếu những
người Kitô hữu cũng có những đẳng
cấp khác nhau, thì tốt hơn tôi nên ở lại với
Ấn Độ giáo”. Vì sự kỳ thị
và phân biệt mà người đàn bà Canaan và ông
Gandhi đã bị loại trừ. Nhưng Chúa Giêsu
đã chứng tỏ cho mọi người nhìn thấy
rằng ân sủng và tình yêu của Thiên
Chúa vượt qua tất cả mọi hàng rào ranh giới
của con người dựng nên.
|