Lên núi cao – Lm Giuse Lê Minh Thông
LÊN NÚI CAO ĐỂ THẤY CÁI KHÔNG THỂ MÔ
TẢ, ĐỂ NGHE LỜI PHÁT RA TỪ ĐÁM MÂY.
Dẫn nhập
Bài Tin Mừng “Biến đổi hình
dạng ở trên núi” (Mt 16,1-9) nằm giữa hai lần
Đức Giêsu báo trước Thương Khó – Phục
Sinh: Lần thứ nhất ở Mt 16,21-23 và thứ hai
ở Mt 17,22-23. Chúng ta vẫn quen gọi: “Ba lần
Đức Giêsu báo trước cuộc Thương Khó”,
nhưng trong cả ba lần Đức Giêsu đều nói
tới biến cố Phục Sinh bằng một câu
ngắn ngủi: “Ngày thứ ba, Người sẽ trỗi
dậy” (Mt 16,21; 17,23; 20,19).
Có lẽ nói ngắn quá nên các môn đệ
trong bản văn cũng như cộng đoàn Mátthêu
cuối thế kỷ I và cả độc giả ngày nay
không để ý, hay xem nhẹ ba lần báo trước
sự Phục Sinh. Vì thế, trình thuật Đức Giêsu
được biến đổi hình dạng (Mt 17,1-9)
nhằm làm lộ ra vinh quang tiềm ẩn nơi
Đức Giêsu và nhất là mặc khải cho các môn
đệ và cho độc giả biết Đức Giêsu
là ai và chúng ta phải làm gì.
Trình thuật Đức Giêsu được
biến đổi hình dạng và tiếng phát ra từ
đám mây vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp
có một không hai trong sách Tin Mừng với những hình
ảnh và ngôn từ rất đặc biệt. Có thể
tìm hiểu đoạn Tin Mừng Mt 17,1-9 qua ba mục:
1) Tách rời khỏi thế giới
thường ngày, thế giới khả giác.
2) Chiêm ngưỡng thế giới của
Thiên Chúa bằng mắt.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa
bằng tai.
1) Tách rời khỏi thế giới thường
ngày, thế giới khả giác.
Trình thuật bắt đầu bằng
sự tách biệt với đời thường về
thời gian, về không gian và về con người: “Sáu
ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em
ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi
riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao” (Mt
17,1).
a) Yếu tố thời gian là “sáu ngày sau”,
đánh dấu sự phân cách với những gì đã
xảy ra trước đó một tuần. Người
kể chuyện không nói gì về sáu ngày này, như thể
sáu ngày im lặng không kể gì cả để làm cho
biến cố xảy ra trên núi cao trở thành một trong
những đỉnh cao của sách Tin Mừng.
b) Trình thuật nói đến tách biệt
về nơi chốn. Ba môn đệ được tách
riêng ra một nơi và được đưa lên một
ngọn núi cao. Đó là núi nào? Bản văn không nói rõ.
Độc giả không nên tìm cách đặt tên, vì bản
văn nói đến một nơi tượng trưng, núi
cao là nơi Thiên Chúa bày tỏ và gặp gỡ con
người. Bản văn cố tình không cho biết núi nào
để đưa độc giả ra khỏi những
gì là bình thường. Cần ra khỏi khỏi thế
giới thường ngày, thế giới khả giác
để có thể hiểu được một biến
cố vượt ra ngoài thời gian và không gian bình
thường. Nơi chốn không rõ, thời gian cũng
bị vượt khỏi giới hạn, cụ thể
trong trình thuật là những nhân vật sống cách nhau hàng
thế kỷ như Môsê, Êlia và Đức Giêsu lại có
thể đàm đạo với nhau.
(Trình thuật không nói rõ nơi nào, nhưng
truyền thống Hội Thánh cần một nơi
để ghi nhớ biến cố này. Núi Ta-bo ở Ga-li-lê
đã được chọn, đây là một ngọn núi
riêng biệt, chung quanh không có đồi núi, nên có thể
thấy từ xa. Hiện nay có một ngôi thánh đường
trên đỉnh núi và khách hành hương đến
để sống và suy niệm về biến cố này).
c) Tách biệt về con người, vì
chỉ có ba môn đệ được chọn: “Phêrô,
Giacôbê và Gioan”. Đây là Nhóm thu nhỏ của Nhóm
Mười Hai, đại diện cho tất cả các môn
đệ khác. Sự tách biệt này là dấu hiệu
văn chương báo trước một biến cố
quan trọng, nhưng chưa phải là lúc phổ biến
rộng rãi cho mọi người. Tuy nhiên, những gì ba môn
đệ này đã thấy và đã nghe là để rao
giảng cho mọi người qua mọi thời
đại được biết. Thực vậy, nhờ
trình thuật, chính độc giả cũng
được tách riêng ra, được thấy và
được nghe những gì ba môn đệ ngày xưa
đã nghe, đã thấy.
Sau khi được tách biệt khỏi
thời gian và không gian bình thường, những gì xảy
ra trên núi thuộc về một thế giới khác. Đó
là thế giới của Thiên Chúa, thế giới không còn
khoảng cách thời gian và không gian, thế giới mà ngôn
ngữ không thể diễn tả được. Trong
khoảng khắc thần linh đó, mặc khải của
Thiên Chúa được tỏ bày qua thị giác (để
thấy) và qua thính giác (để nghe).
2) Chiêm ngưỡng thế giới của Thiên Chúa
bằng mắt
Trước hết, Đức Giêsu không
tự mình biến đổi hình dạng mà “Người
được biến đổi hình dạng” (metamorphôthê).
Động từ Hy Lạp metamorphôthê ở dạng
thụ động và tác nhân được hiểu là Thiên
Chúa (passif divin). Chính Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu
được biến đổi hình dạng.
Sự biến đổi này không chỉ là
biến đổi khuôn mặt. Tiếng Pháp quen dùng
động từ transfigurer có nghĩa là thay đổi
(trans) khuôn mặt (figure). Từ figure có nghĩa đầu
tiên là mặt. Trong khi động từ Hy Lạp metamorphoô,
tiếng Pháp chuyển âm: métamorphoser, có nghĩa là biến
đổi, biến hoá (méta) toàn thân, từ trong bản
chất (morphoser). Tiếng Việt có thể dùng cụm
từ “biến đổi hình dạng”.
Đức Giêsu được biến
đổi hình dạng trước mặt ba môn đệ.
Nghĩa là ba môn đệ được chứng kiến
sự kiện nhưng họ đã thấy gì? Người
thuật chuyện kể: “Dung nhan Người chói lọi
như mặt trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng.” Nếu dung nhan Đức Giêsu
chói lọi như mặt trời thì làm sao các môn đệ
có thể nhìn mà không bị mù mắt. Nếu y phục
của Đức Giêsu trở nên trắng tinh như ánh sáng
thì làm sao các môn đệ có thể thấy được,
vì không ai thấy được ánh sáng mà chỉ có thể
thấy sự phản chiếu của ánh sáng nơi sự
vật mà thôi.
Thực ra, đây là cách diễn tả
những thực tại thần linh bằng thứ ngôn
ngữ thị kiến của sách Khải Huyền. Ba môn
đệ đang đối diện với thế
giới của Thiên Chúa, đối diện với
những thực tại thuộc về Thiên Chúa,
đối diện với vinh quang của Thiên Chúa, nên ngôn
ngữ loài người hoàn toàn bất lực. Ngôn ngữ
loài người không mô tả được, chỉ vì
điều xảy ra không có trong kinh nghiệm cuộc
sống thường ngày của con người.
Bằng ngôn ngữ, sách Khải Huyền
chỉ có thể mô tả những thị kiến về
thế giới thần linh bằng các từ: “như”,
“giống như”, “tựa như”... còn điều trông
thấy thì không thể mô tả được. Chẳng
hạn Gioan mô tả thị kiến ở Kh 4,2-3: “Lập
tức tôi xuất thần. Kìa một cái ngai đặt
ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. Đấng
ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích
não. Chung quanh ngai có cầu vồng trông giống như bích
ngọc”. Kh 4,6 viết: “Trước ngai có cái gì như
biển trong vắt tựa pha lê.” “Trông giống như...”,
“như...” còn thực sự thế nào thì không mô tả
được.
Có thể nói, trên núi cao, giữa trời và
đất, ba môn đệ được thấy “thị
kiến” về Đức Giêsu trong thế giới của
Thiên Chúa, chỉ có thể mô tả bằng so sánh “như”: “Chói
lọi như mặt trời”, “trắng tinh như ánh sáng”,
nghĩa là dung nhan của Đức Giêsu không phải là
mặt trời, và y phục của Người cũng
chẳng phải là ánh sáng, chỉ là “như”,
“giống như” mà thôi.
Trong thế giới thần linh ấy, các
nhân vật sống cách nhau hàng thế kỷ có thể
ngồi lại đàm đạo với nhau. Theo Kinh Thánh,
Môsê dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập vào thế kỷ
XIII TCN, Êlia là ngôn sứ dưới thời vua A-kháp,
thế kỷ VIII TCN và Đức Giêsu thế kỷ I SCN.
Nội dung đàm đạo không
được kể ra, nhưng điều chắc
chắn là có trao đổi giữa các nhân vật. Trong
thế giới trên cao, điều nhấn mạnh là
tương quan giữa người sống và người
đã khuất, là nối kết giữa các thế hệ
với nhau, như thể khoảng cách thời gian không còn
nữa. Ba môn đệ là chứng nhân cuộc đàm
đạo nhưng nội dung lại vượt ra ngoài
sự nắm bắt của người phàm.
Lời Phêrô nói với Đức Giêsu:
“Thưa Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài
muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một
cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (17,4). Lời
đề nghị này vừa cho thấy các môn đệ muốn
kéo dài thị kiến vì biến cố quá hay, quá tốt, quá
đẹp, vừa có nét hài hước vì Phêrô đề
nghị làm ba lều cho Đức Giêsu, Môsê và Êlia như
thể những nhân vật đã khuất như Môsê và Êlia
không thuộc về thế giới này lại cần
lều để ở, còn ba môn đệ là người
phàm lại không cần lều.
3) Lắng nghe mặc khải của Thiên Chúa bằng
tai
Mặc khải bằng thị kiến
kết thúc với sự lên tiếng của con
người, cụ thể là Phêrô, và chuyển sang hình
thức mặc khải thứ hai: “Tiếng nói từ
đám mây”: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người.” (17,5).
Từ kinh nghiệm thị kiến, thấy
bằng mắt, chuyển sang mặc khải bằng
lời qua tiếng phát ra. Các môn đệ chỉ có thể
lãnh hội được nội dung bằng cách “nghe”.
Tiếng phát ra từ đám mây không phải là tiếng con
người, tiếng này có nguồn gốc từ trời
và bí ẩn. Lối hành văn phù hợp với bối
cảnh của biến cố trình bày mặc khải
của Thiên Chúa.
Cách thứ nhất, mặc khải bằng
thị kiến là vén bức màn lên (mạc khải)
để soi sáng những gì còn ẩn dấu (mặc
khải). Cách thứ hai là mặc khải bằng lời,
hàm ẩn sự lắng nghe để hiểu, ở
đây lắng nghe theo nghĩa đón nhận, cho dù chưa
hiểu trọn vẹn ý nghĩa của lời mặc
khải. Trong trình thuật biến hình, có cả hai cách
mặc khải, nhằm giúp ba môn đệ và độc
giả hiểu được Đức Giêsu là ai.
Lời phát ra từ đám mây (17,5), nhắc
lại tiếng phát ra từ trời sau khi Đức Giêsu
chịu phép rửa ở đầu sách Tin Mừng: “Đây
là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt
3,17). Mt 17,5 có thêm hai yếu tố mới: (1) “Hãy vâng nghe
lời Người”, dịch sát: “Hãy nghe Người (akouete
autou)”, (2) Tiếng phát ra từ đám mây nói trực
tiếp với ba môn đệ và qua đó nói với
độc giả qua mọi thời đại về
căn tính của Đức Giêsu và tương quan của
Người với Thiên Chúa Cha. Lời nói từ đám mây
gồm một lời giới thiệu: “Đây là Con yêu
dấu của Ta” và một mệnh lệnh: “Các
người hãy nghe Người.”
Khi gọi ai là Con (huios) thì người
ấy là Cha, như thế lời phát ra muốn các môn
đệ và độc giả biết Đức Giêsu có
tương quan “Cha – Con” với Thiên Chúa, Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa. Mệnh lệnh nói với ba môn
đệ và cho độc giả: “Hãy nghe Người” là
một khẳng định quan trọng nói lên sự thay
đổi lớn trong tương quan giữa Thiên Chúa và
con người, như thể Chúa Cha tự xoá mình
trước Đức Giêsu là Con yêu dấu của
Người.
Thực vậy, trước khi Đức
Giêsu xuất hiện, Thiên Chúa phán với dân và dân nghe
lời Người. Khi Đức Giêsu xuất hiện,
Chúa Cha dặn các môn đệ: Hãy nghe lời Đức
Giêsu. Như thế, tương quan “Thiên Chúa / dân” trong
Cựu Ước trở thành tương quan “Đức
Giêsu / môn đệ” trong Tân Ước, và đây là ý muốn
của Chúa Cha.
Nghe lời Đức Giêsu là nghe tất
cả những gì Người nói và dạy. Đặc
biệt đón nhận lời loan báo Thương Khó và
Phục Sinh đã được loan báo trước đó
và Người sẽ báo trước thêm hai lần nữa
để nhấn mạnh biến cố nền tảng và
nghịch lý này. Như thế, biến cố trên núi cao không
phải là một biến cố tách rời khỏi các trình
thuật khác. Ngược lại, lời mời gọi
“nghe lời Đức Giêsu”, nối kết biến cố
trên núi cao với toàn bộ giáo huấn của Đức
Giêsu trong sách Tin Mừng.
Đối diện với thế giới
của Thiên Chúa và vinh quang của Người, các môn
đệ đã “kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống
đất” (17,5). Chính Đức Giêsu đã đưa các
ông trở lại đời thường bằng cách
chạm vào các ông và nói: “Chỗi dậy đi, đừng
sợ”,
các ông ngước mắt lên và mọi chuyện lại
trở về thực tế. Nhưng biến cố
ấy, những gì đã thấy, những lời đã
nghe, sẽ không bao giờ rời khỏi các ông.
Kết luận
Giữa hai lần báo trước biến cố
Thương Khó và Phục Sinh, Đức Giêsu đưa ba
môn đệ ra khỏi đời thường để
bước vào thế giới của Thiên Chúa. Ở đó
những điều xảy ra nhằm mặc khải
căn tính của Đức Giêsu. Biến cố trên núi cao
báo trước sự Phục Sinh của Đức Giêsu vì
Người có nguồn gốc thần linh, Người có
Cha là Thiên Chúa, Người là Con và được Chúa Cha yêu
thương. Chính Chúa Cha ra lệnh cho các môn đệ
lắng nghe giáo huấn của Đức Giêsu.
Trình thuật Đức Giêsu được
biến đổi hình dạng trên núi cao và lời phát ra
từ đám mây là những tia sáng mạnh mẽ như ánh
sáng mặt trời, có khả năng soi sáng cho cuộc
đời của độc giả mọi nơi mọi
thời đang bước đi trong đêm tối,
đang sống trong khó khăn thử thách của cuộc
sống, đang nghi ngờ về căn tính của
Đức Giêsu và chưa biết rõ Người là ai. Có
thể nói, biến cố trên núi cao là hình ảnh của
biến cố Phục Sinh, trước khi biến cố
Thương Khó xảy ra. Đây là niềm hy vọng
lớn lao cho ba môn đệ và cho độc giả.
Đọc xong trình thuật, liệu
độc giả, là tất cả chúng ta, có thực
sự sống biến cố xảy ra trên núi như ba môn
đệ hay không?
Liệu độc giả có cùng với các
môn đệ tách ra khỏi đời thường
để ngây ngất trước vẻ đẹp
của thế giới trên cao hay không?
Liệu độc giả mọi nơi
mọi thời có nghe được tiếng phát từ
trời để biết Đức Giêsu là ai (là Con Thiên
Chúa) và biết phải làm gì (Nghe Đức Giêsu) hay không?
Ước gì mặc khải ngắn ngủi
trong bản văn bằng thị kiến để
thấy, và bằng lời để nghe có khả năng
gây ấn tượng lâu dài và trở thành một lời
mời gọi tin và vững tin vào Đức Giêsu trong hoàn
cảnh khó khăn, thử thách.
Mong sao mệnh lệnh “Hãy nghe Người”
là lời thúc đẩy chúng ta đến với Tin
Mừng, đọc Tin Mừng để nhận ra lời
của Đức Giêsu là Lời sự sống, Lời đem
lại ý nghĩa cho cuộc đời này.
|