Đức
Giêsu biến đổi hình dạng
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX.
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều
đặt câu truyện Hiển Dung vào cùng một chỗ,
tiếp sau lời tuyên xưng của Phêrô (Mc 8,27-30; Mt
16,13-20; Lc 9,22) và những lời Đức Giêsu nói về
số phận của môn đệ và vinh quang của Con
Người (Mc 8,34–9,1; Mt 16,24-28; Lc 9,23-27).
Riêng Tin Mừng Matthew đóng khung cuộc
đời công khai của Đức Giêsu giữa hai
ngọn núi:
- Khi chuẩn bị ra đi thi hành sứ
vụ: trên “một ngọn núi rất cao” (Mt 4,8), quỷ
đã cám dỗ Đức Giêsu nhận quyền bính và
quyền hành trên toàn thế giới từ tay nó: “Tôi sẽ
cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông
sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã
dứt khoát từ chối.
- Khi kết thúc sứ mạng của
Người và khởi đầu sứ mạng của các
môn đệ, Đức Giêsu gặp Nhóm Mười
Một “tại ngọn núi Người đã truyền cho
các ông đến” (Mt 28,16). Tại đây Người tuyên
bố là Người “đã được [Thiên Chúa] trao
toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18) và
dựa trên nền tảng này, Người sai phái các ông
đi loan báo Tin Mừng “cho muôn dân”.
Vì Người đã từ chối nhận
mọi quyền hành từ tay quỷ mà bây giờ
Người nhận được mọi quyền hành
từ tay Thiên Chúa.
- Giữa hai biến cố nêu trên, có một
biến cố khác cũng xảy ra trên một ngọn núi
cao: Đức Giêsu biến đổi hình dạng, Người
có vinh quang Thiên Chúa: cuộc khải hoàn Phục Sinh đã
được giới thiệu trước. Và biến
cố này đã xảy ra sau khi Đức Giêsu gạt
bỏ đề nghị của Satan qua miệng Phêrô là
đừng đi theo đường lối của Chúa
Cha.
Theo văn cảnh xa, có thể nói bản
văn chứa đựng biến cố Hiển Dung
vừa tóm lại các cám dỗ vừa đón trước
cuộc diện kiến trên núi giữa Đấng Phục
Sinh và các môn đệ; chúng ta thấy ở đây có các
yếu tố của hai tình trạng ấy của
Đức Giêsu: Con Thiên Chúa vinh quang và Đấng Messiah
phải chịu đau khổ; nổi bật lên như
một gạch nối là sự chọn lựa dứt
khoát, thái độ cương quyết của Đức
Giêsu để đi theo thánh ý Chúa Cha. Điểm này
được minh chứng theo văn cảnh gần:
cuộc Hiển Dung được đóng khung giữa hai
lời loan báo về Khổ Nạn (Mt 16,21-23; 17,22-23).
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia thành phần:
1) Mở
(17,1);
2) Thị
kiến (17,2-8):
a) Mở
đầu: Đức Giêsu biến đổi hình dạng,
b) Các tình
huống: Moses và Elijah hiện ra đàm đạo; Phêrô
đề nghị làm lều; tiếng Thiên Chúa phán,
c)
Kết: các môn đệ sợ hãi; Đức Giêsu trấn
an; mọi sự trở lại như cũ;
3) Kết
(17,9).
3.- Vài
điểm chú giải
- Sáu ngày sau (1): Theo Xh 24,13-16, Thiên Chúa tỏ mình
ra cho Moses trên núi Sinai sau sáu ngày; và theo Đnl 16,13-15, đay
là ngày cuối cùng của Lễ Lều.
- Phêrô, Giacôbê và Gioan (1): Ba môn đệ này
cũng lại được thấy xuất hiện
tại khu vườn Gethsemane (Mt 26,37).
- Một ngọn núi cao (1): Một quả núi là
biểu tượng cho nơi Thiên Chúa mạc khải.
Ở đây hẳn quả núi này là một Sinai khác tại Galilee.
Truyền thống vẫn cho rằng đây là núi Tabor, mà
Tabor thật ra chỉ là một quả đồi. Nhưng
hợp lý hơn, có lẽ là núi Carmel
hay Hermon. Đặc biệt trong Tin Mừng Matthew, khi
Đức Giêsu sắp làm một việc gì quan trọng,
Người thường lên núi: cuộc cám dỗ xảy
ra trên núi cao (Mt 4,8); các Mối Phúc được công bố
trên núi (Mt 5,1); bánh được nhân ra nhiều trên núi (Mt
15,19); và Nhóm Mười Một gặp Đấng Phục
Sinh trên một ngọn núi (Mt 28,16).
- Biến đổi hình dạng (metemorphòthé; 2):
Sự cố biến đổi hình dạng (= sự hóa
thân) này là điều rất quen thuộc đối
với ngoại giáo. Có lẽ vì thế mà Luca đã tránh dùng
từ ngữ này.
- Moses và Elijah (3): Đây là hai nhà linh thị
trứ danh của Cựu Ước, cả hai đều
có liên hệ với núi Sinai-Horeb. Moses thường
được coi là đại diện cho Lề Luật
và Elijah đại diện cho các Ngôn Sứ; nhưng có
thể coi cả hai vị vừa là những nhà lập pháp
vừa là những ngôn sứ. Và nói chung, các ngài đại
diện cho thiên giới.
- Ba cái lều (4): Hẳn chi tiết này nhắc
dến hoàn cảnh thực là Lễ Lều (sukkốt: Lv
23,42; Nkm 8,14-18).
- Đám mây sáng ngời bao phủ các ông (5):
Đám mây là dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa. Động từ episkiazein, “bao phủ; rợp
bóng” là động từ cổ điển để
lưu ý về sự hiện diện (Hipri: shekinah) của
Đức Chúa (Yhwh) trong đời sống và trong các tình
huống của dân Ngài (x. Xh 40,34-35; 1V 8,10-12; Ed 10,3-4; Tv
18,12).
- Tiếng từ đám mây phán (5): Trong Cựu
Ước, “tiếng nói” thường xuất hiện trong
các bài tường thuật về ơn gọi, chẳng
hạn: St 12,1-3; 15,1; Xh 3,4; 19,16-24; 1Sm 3,4; Is 6,8; Gr 1,11;...
- Đây là Con yêu dấu của Ta (5): Câu này là
một tổng hợp Tv 2,7; Is 42 và có lẽ cả St 22,2.
Từ ngữ “con” trước tiên diễn tả quan
hệ gia đình, rồi cũng có sắc thái thân tình,
kết hợp và hiệp thông.
- Nghe vậy, các môn đệ rất đỗi
sợ hãi (6): Matthew cho thấy là nỗi sợ hãi
của họ là do nghe lệnh Thiên Chúa truyền, chứ
không phải do thấy thị kiến (Marco).
- Đức Giêsu lại gần (7): Động
từ proserchomai, “đi đến, đến gần”, là
một động từ Matthew thích dùng (52 lần; 5
lần trong Marco và 10 lần trong Luca), nhưng chỉ có hai
lần được áp dụng cho Đức Giêsu (ở
17,6-7 và 28,18 riêng của Matthew). Trong cả hai bản
văn, Đức Giêsu đến gần các môn đệ
với mục tiêu là trợ giúp những kẻ đang
sợ hãi hoặc hoài nghi:
Mt
17,6-7
6 Khi các môn
đệ nghe vậy
họ ngã sấp mặt
xuống đất
và hết sức kinh hoàng
7 Bấy giờ
Đức Giêsu lại gần
chạm vào các ông và
bảo:
“Trỗi dậy đi,
đừng sợ”
|
Mt
28,16-20
16 Mười
một môn đệ…
17 Khi thấy
Người,
các ông bái lạy
Người,
nhưng có mấy ông hoài
nghi.
18 Đức Giêsu
đến gần
nói với các ông:
19 “…toàn quyền…”
20 Thầy ở
cùng anh em mọi ngày”
|
- Thị kiến (9): Hoạt cảnh này vừa
là “thị kiến” ([h]orama do động từ [h]oraô)
kiểu khải huyền vừa là một cuộc thần
hiển (có thể so sánh với các bản văn Khải
Huyền: Đn 10,1-10 [Kh 1,13-15]; 12,4.9 và các yếu tố
thần hiển trong: Xh 19,16; 24,15-16; 40,34-35). Từ ngữ
mang tính khải huyền này hàm ý là nhìn thấy Đức
Giêsu hiển vinh là một “thị kiến” được
Thiên Chúa ban cho.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Bản văn chúng ta đọc hôm nay có
phần khó hiểu. Nếu tác giả muốn kể cho
chúng ta biêt về một biến cố đặc biệt
xảy ra trong cuộc đời Đức Giêsu, thì
hẳn là mọi sự sẽ đơn giản và rõ ràng;
nhưng tác giả lại đi xa hơn việc cung
cấp thông tin. Ngài muốn nói cho chúng ta biết Đức
Giêsu là ai, và ngài đã dùng một ngôn ngữ đầy hình
ảnh và biểu tượng dễ hiểu và rõ ràng cho
người thời đại ngài, nhưng lại khó cho
chúng ta hôm nay.
* Mở (1)
Chi tiết xác định thời gian “sáu ngày
sau” muốn nói là sau chuyện gì? Tại sao tác giả
lại ghi nhớ một chi tiết không đáng kể
như vậy? Và làm sao ngài có thể còn nhớ
được chi tiết này 50 năm sau, khi bắt
đầu viết?
Tại sao Đức Giêsu chỉ đưa
ba môn đệ đi với Người? Tại sao
Người lên một ngọn núi?
Chi tiết “sáu ngày sau” hẳn là muốn
đưa độc giả về với Xh 24,16, trong
đó kể rằng “sau sáu ngày”, mây bao phủ quả núi và
đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa gọi Moses. Tác
giả hướng độc giả chú ý vào một kinh nghiệm
siêu nhiên. Nơi ấy hẳn là vắng vẻ, bởi vì
Đức Giêsu đưa các môn đệ “đi riêng
với mình, lên một ngọn núi cao”, bởi vì theo một
cái khung quen thuộc theo linh đạo Kinh Thánh,
người ta không thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa
(Đức Kitô) trong sự hỗn độn và ồn ào
náo nhiệt. Đức Giêsu chính là vị hướng
dẫn đoàn dân mới, được đại
diện bởi ba môn đệ.
* Thị kiến (2-8)
Sau phần mở, tác giả giới
thiệu Đức Giêsu vinh quang, bằng cách vận
dụng các yếu tố quen thuộc của những
thị kiến khải huyền (ánh sáng mặt trời, y
phục trắng tinh). Sau này, khi mô tả trang phục
của vị sứ thần báo tin Phục Sinh, tác giả
Matthew cũng cho thấy các yếu tố này (Mt 28,3-4).
Họi Thánh gọi cuộc Phục Sinh là một sự
“biến hóa; biến thái” (metamorphein) để cho thấy
sự thay đổi xảy ra nơi nhân tính Đức
Giêsu. Từ ngữ này dị nghĩa vì có thể làm chúng ta
nghĩ đến sự hóa trang của các thần linh Hy
Lạp, cho dù đây là một dữ kiện không được
các Kitô hữu Siri và Paléttina biết đến. Từ
ngữ này cũng hời hợt nữa, vì không phác họa
được tất cả mầu nhiệm Phục Sinh
mà các tác giả Tin Mừng còn gọi là “sự tái sinh”,
“sự công chính hóa”. Ánh sáng, màu sắc, sự “biến hóa”
nơi bản thân Đức Giêsu, tất cả cho thấy
rằng Người là một nhân vật thuộc thế
giới khác, là “Con Người” mặc lấy uy quyền
và vinh quang (x. Đn 7,13-14). Đây là một thị kiến
về Đức Kitô trong vinh quang tương lai của
Đấng Phục Sinh.
Đức Kitô biến đổi hình
dạng (và phục sinh) là đích điểm của Lề
Luật và các Ngôn Sứ (x. Mt 5,17). Sự xuất hiện
của Moses và Elijah (ngược lại với Mc 9,4) cho
thấy các niềm chờ mong của dân Israel,
các lời hứa thiên sai, nay đã nên hiện thực
nơi bản thân Đức Giêsu (x. Lc 24,27; Rm 3,21). Chúng ta
không được biết là hai ngài đàm đạo
với Đức Giêsu về chuyện gì, nhưng dựa
theo Lc 9,31, các ngài nói về “cuộc xuất hành” Đức
Giêsu sắp hoàn thành tại Jerusalem, thì hẳn là các ngài trao
đổi cuộc Khổ Nạn Đức Giêsu sắp
đi vào. Moses và Elijah tượng trưng cho truyền
thống Cựu Ước mà Đức Giêsu đến
để hoàn tất (Mt 5,17). Khi chỉ một mình ngài ghi
nhận là “dung nhan Người chói lọi như mặt
trời”, hẳn là tác giả Matthew muốn ám chỉ
Đức Giêsu là Moses mới, còn Moses ngày xưa chỉ có
“da mặt sáng chói” mà thôi (x. Xh 34,30).
Phản ứng của Phêrô khi đề
nghị dựng ba cái lều lại nêu bật một
lần nữa sự tương phản giữa các khát
vọng của loài người và kế hoạch của
Thiên Chúa. Mới trước đây ít lâu, ông đã lấy
lòng thành mà ngăn cản Đức Giêsu đi lên Jerusalem,
và đã bị Đức Giêsu mắng là “Satan”. Nay khi
đề nghị dựng ba lều, ông đã hiểu sai ý
nghĩa của quang cảnh nên đã tìm cách hưởng
lấy chiến thắng vinh quang mình không đáng
hưởng. Cả ở đây cũng vậy, Phêrô là
đại diện cho “thịt và máu” (Mt 16,17), tức
người không suy nghĩ theo Thiên Chúa, nhưng theo cách của
loài người (Mt 16,23), nên lại ngáng trở thay vì
cộng tác với Thiên Chúa. Lần này, không phải là
Đức Giêsu mắng Phêrô là “người kém tin” (Mt 14,31)
hoặc là liên minh Satan (Mt 16,23), nhưng chính Chúa Cha can
thiệp để điều chỉnh các ước
vọng và quan niệm của ông. Đám mây sáng ngời bao
phủ cả các tông đồ. Như thế, các ông đã
được tiếp xúc với chính vinh quang huy hoàng
của Thiên Chúa, để được đón nhận
một sứ điệp trực tiếp từ Thiên Chúa.
Khi Chúa Cha giới thiệu Con của Ngài, lời lẽ của
Ngài không còn dè giữ, không giới hạn nữa (x. Mt
11,25-27). Lời giới thiệu Đức Kitô (Phục
Sinh) là một tổng hợp giữa các “bản văn
thiên sai” (Tv 2,7 và Is 42,1). Cũng như tại phép rửa,
“tiếng nói” từ trời làm sáng tỏ và xác nhận
cả sứ mạng lẫn ơn gọi của
Đức Giêsu. Phêrô đã muốn xóa đi một phần
chương trình thiên sai; Chúa Cha đến nhắc rằng
chương trình này không phải là một công trình của
loài người, nhưng là một kế hoạch của
Ngài. Chính Ngài đã phác ra cho Đức Giêsu con
đường phải theo (người tôi tớ đau
khổ chứ không phải là một vị vua thuộc dòng
dõi David).
Tác giả hoàn tất khung cảnh với
những yếu tố thuộc quy ước: ngã xuống
đất, sợ hãi, im lặng. Đây là những mẹo
văn chương mà các tác giả văn chương
khải huyền thường dùng để diễn tả
một kinh nghiệm siêu phàm đang xảy ra. Đức
Giêsu can thiệp như vai trò thiên thần trấn an. Các
lời “Đừng sợ” thường được
nói lên trong các thị kiến tương tự (x. Đn
8,16-17; 10,9-12.16-19; Kh 1,17; Lc 1,12-13.29-30).
Câu cuối của hoạt cảnh có một
tầm mức biện giáo và Kitô học. Sau khi “hóa thân”,
Đức Giêsu trở lại với tình trạng bình
thường. Từ nay, “chỉ còn một mình Đức
Giêsu mà thôi”, bởi vì Người là phát ngôn nhân duy nhất
của Thiên Chúa, mà loài người phải quy chiếu
về và quy phục. Lời nhắc này được
gửi đến mọi người, nhưng đặc
biệt được gửi đến những
người còn tin vào Moses và chờ đợi Elijah trở
lại (x. Mt 17,10).
* Kết (9)
Từ trên núi xuống, lời nhắc
“giữ bí mật” xác nhận rằng bản văn này song
song với các mạc khải kiểu khải huyền (x.
Đn 12,9) và gợi lại các tình huống phức tạp
(chính trị–ái quốc) mà các lời loan báo về
Đấng Messiah đã và sẽ gặp. Lời xác
định “cho đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy” cho thấy con đường đúng
để hiểu được ý nghĩa bài tường
thuật này. Thực tại của Đức Giêsu chỉ
sẽ nên sáng tỏ và ta chỉ sẽ hiểu
được dưới ánh sáng của cuộc Phục
Sinh của Người.
+ Kết luận
Cuộc Hiển Dung là cuộc tôn vinh
được sống trước của Đức
Giêsu. Người đã xuất hiện trong tất cả
những phẩm tính của Người: Con Người,
tôi trung của Đức Chúa, Messiah, Con Thiên Chúa, và với
tất cả các liên hệ của Người trong
lịch sử cứu độ. Cuộc Hiển Dung
vừa tăng cường uy tín cho sứ mạng của
Đức Giêsu vừa củng cố quyền bính của
các tông đồ. Nếu quyền hành của Phêrô (16,18) và
của Nhóm Mười Hai (Mt 18,18) lên tới trời là
bởi vì ở dưới thế này, Đức Kitô đã
đăng quang, nhằm xác nhận các quyết định
của các ông.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Muốn có một kinh nghiệm nào đó về
Thiên Chúa, muốn gặp gỡ Ngài, nhất thiết chúng ta
phải ra khỏi đời sống thường ngày xô
bồ náo nhiệt và được chính Ngài dẫn
dắt. Người ta vẫn nói rằng có thể và
phải gặp Thiên Chúa giữa lòng cuộc sống này.
Điều này không sai, và còn cần thiết cho chúng ta là
những người thường xuyên sống và dấn
thân giữa lòng xã hội với những vấn đề
và biết bao cuộc gặp gỡ với người
khác. Nhưng để có thể gặp Chúa trong cuộc
đời và cộng tác với Ngài, chúng ta đã phải
thường xuyên gặp Ngài trong nơi cô tịch, trong
thinh lặng, riêng tư: chúng ta đã thường xuyên
được Ngài bao phủ “trong đám mây sáng chói”.
2. Phêrô đã thưa với Đức Giêsu:
“Lạy Ngài (= Chúa)”, nhưng rất có thể theo nghĩa là
đế vương, vị thống lãnh, hơn là Messiah
vinh quang. Đức Kitô mà Chúa Cha (và hôm nay, Hội Thánh)
giới thiệu là Chúa Tể, nhưng đặc biệt
là ngôn sứ, là nhà lập pháp được ủy
nhiệm của thời đại mới, Đấng mà
loài người phải lắng nghe, nghĩa là vâng
phục. Quan niệm của Phêrô không do Thiên Chúa
hướng dẫn, nên sai lạc; các đề nghị
của Chúa Cha, trong đó có hàm chứa cả những
lời loan báo về số phận cuối cùng, trần
thế và thiên quốc, của Đức Kitô, mới là
những đề nghị đúng đắn mà loài
người phải đón nhận.
3. Tất cả những gì Israel
vẫn ước mong nay đã trở thành hiện
thực. Điều mới mẻ là nhân vật
được biến đổi hình dạng.
Người không từ trời xuống đất, mà chính
là trời xuống với đất. Người không nói,
mà chính tiếng nói từ trời lên tiếng. Cuối cùng,
điều chính yếu là kể từ nay, Đấng mà ta
phải lắng nghe (vâng phục) không còn phải là
Đức Chúa (Yhwh) mà là Đức Giêsu, Đấng
đang ở đó. Con người này là Đấng
mạc khải, là chính Đức Chúa.
4. Sự biến hình Thánh Thể của Chúa
Giêsu đối với Người hệ tại không
phải là tỏ vinh quang của Người ra bên ngoài,
nhưng là che giấu vinh quang ấy đi dưới
những hình bí tích. Tuy nhiên, vì đã trung thành lắng nghe
lời của Con yêu dấu để được
Người dạy dỗ về mầu nhiệm này, chúng
ta nhạn ra Người đang hiện diện
dưới dạng bánh thánh và Phêrô có thể kêu lên: “Lạy
Chúa, ở đây thật là hay!”. Sau đó, cần có can
đảm mà phụng sự Người trong nếp
sống khiêm tốn mỗi ngày.
5. Hội Thánh đang dấn thân thi hành
sứ mạng Đức Giêsu đã giao phó cho Nhóm
Mười Một trên núi (x. Mt 28,16-20). Để có thể
tiếp tục chu toàn sứ mạng, Hội Thánh luôn
nhớ bài học Đức Giêsu để lại trên núi
kia, khi Người từ chối các gợi ý của Satan,
cũng như lời giới thiệu của Chúa Cha trên núi
nọ, khi Người giới thiệu Đức Giêsu là
Con yêu dấu của Người, là điển hình cho chúng
ta, là Đấng sẽ ban cho chúng ta những giáo huấn
giúp chúng ta trở thành gia đình đích thực của
Thiên Chúa.
|