HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 18 TN A –
LỄ CHÚA HIỂN DUNG
Đn 7,9-10.13-14 ; 2 Pr 1,16-19 ; Mt 17,1-9
TRỞ NÊN ĐỒNG HÌNH ĐỒNG
DẠNG VỚI CHÚA
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 17,1-9.
(1) Sáu ngày sau,
Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an
là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người
đưa các ông đi riêng ra một chỗ,
tới một ngọn núi cao. (2) Rồi
Người biến đổi hình dạng
trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt
trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng. (3) Và kìa
các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra
đàm đạo với Người. (4) Bấy
giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su
rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây,
thật là hay ! Nếu Ngài muốn, con xin
dựng tại đây ba cái lều. Ngài một
cái, ông Mô-sê một cái, và ông Ê-li-a một
cái”. (5) Ông còn đang nói, thì kìa có
đám mây sáng ngời bao phủ các ông,
và kìa có tiếng từ đám mây phán
rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta
hài lòng về Người. Các ngươi hãy
vâng nghe lời Người!”. (6) Nghe vậy, các
môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt
xuống đất. (7) Bấy giờ Đức Giê-su
lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Trỗi
dậy đi, đừng sợ!”. (8) Các ông
ngước mắt lên, không thấy ai nữa,
chỉ còn một mình Đức Giê-su mà
thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi
xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông
rằng: “Đừng nói cho ai hay thị
kiến ấy, cho đến khi Con Người
từ cõi chết trỗi dậy”.
2. Ý
CHÍNH: BIẾN ĐỔI CUỘC SỐNG NOI
GƯƠNG CHÚA GIÊ-SU.
Bài
Tin Mừng thuật lại việc Đức Giê-su
biến hình trên một núi cao trước
mặt ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê
và Gio-an. Mặt Người chiếu sáng
như mặt trời. Áo người
trở nên trắng như tuyết. Có hai nhân
vật Cựu Ước là Mô-sê và Ê-li-a
hiện ra đàm đạo với
Người, có tiếng Chúa Cha giới
thiệu Người là Con yêu dấu và
đòi các môn đệ phải vâng nghe lời
Người. Ba môn đệ từ vui mừng
đến khiếp sợ khi đối diện
với vinh quang Thiên Chúa.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông
Gia-cô-bê: Đây là ba
môn đệ thân tín nhất của Đức Giê-su.
Các ông là những người nhiệt
thành yêu mến Thầy, và được trao các
nhiệm vụ then chốt, nên Đức Giê-su
đã cho các ông thấy trước vinh quang
của Người, để thêm lòng tin, hầu
đủ sức vượt qua giờ phút
đau thương trong cuộc khổ nạn của
Người (x. Mt 26,37). + Một ngọn núi cao:
Theo truyền thống xa xưa, thì đó là
ngọn Ta-bo. Tuy núi này chỉ cao 360 m so với
Địa Trung Hải, nhưng nằm trên cánh
đồng rộng lớn Ét-rê-lon, cũng gây cho
người ta cảm tưởng một ngọn
núi cao. Ngày nay nhiều người nghĩ
tới ngọn Khéc-môn cao 2.795 m gần thành
Xê-da-rê của Phi-líp-phê. Đi từ Xê-da-rê
tới nơi mất khoảng 5 ngày
đường như Tin Mừng đã
viết. Tuy nhiên có lẽ khi viết câu này,
Mát-thêu chỉ chú trọng đến ý
nghĩa tượng trưng của Núi: Núi
là nơi khởi đầu và kết thúc
mặc khải của Thiên Chúa đối
với Mô-sê thời Cựu Ước hay
với Đức Giê-su thời Tân
Ước (x. Mt 5,1; 28,16). Núi cũng là nơi
quy tụ muôn người nên một trong
Nước Trời trong thời cánh chung (x.
Mt 15,29; Is 2,2-3). + Người biến
đổi hình dạng trước mặt
các ông: Đức Giê-su tỏ bày Thiên
tính vinh quang của Người cho các môn
đệ thấy. Trong thời Xuất Hành, sau
mỗi lần đàm đạo với
Đức Chúa, mặt Mô-sê sáng chói,
đến nỗi dân Ít-ra-en sợ không dám
lại gần ông (x. Xh 34,29-30). + Dung nhan Người chói
lọi như mặt trời, và y phục
Người trở nên trắng tinh như
ánh sáng: “Chói lọi như mặt
trời” là biểu hiện của sự thuộc
về thiên quốc (x. Mt 28,3; Cv 9,3) và thời
cánh chung (x. Kh 1,14; 4,4). Theo thể văn khải
huyền thì y phục trắng tinh giống như
ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên
giới dành cho những người
được Thiên Chúa tuyển chọn.
- C 3-4: + Ông Mô-sê và ông Ê-li-a: Hai ông này tượng trưng cho Luật
Mô-sê và các ngôn sứ, nghĩa là cho
toàn bộ Cựu Ước. Như thế
tất cả Cựu Ước đều hiện
diện để làm chứng và tôn vinh
Đức Giê-su. Hai vị này đàm
đạo với Đức Giê-su về cái
chết của Người sắp
được thực hiện tại Giê-ru-sa-lem
như một cuộc Xuất Hành Mới (x. Lc
9,31). Như vậy, toàn bộ khung cảnh biến
hình này đều qui hướng về
cuộc Thương Khó và Phục Sinh của
Đức Giê-su. + Dựng ba cái lều:
Theo truyền thống Do thái thì Thiên Đàng
được gọi là “Lều vĩnh
cửu” hay “Nhà tạm đời
đời” (x. Lc 16,9). Vào thời cuối
cùng, Thiên Chúa sẽ ngự giữa dân
Người trong lều vinh quang của
Người, và dân chúng sẽ cắm
lều quanh Đấng Cứu Thế (x. Ga
1,14).
- C 5-6: + Đám mây sáng ngời bao phủ các
ông: Trong Cựu
Ước, khi tiếp xúc với dân Ít-ra-en,
Đức Chúa thường xuất hiện
trong đám mây (x. Xh 24,15-16). Ở đây, Thiên
Chúa dùng mây che phủ các ông, để nói
lên sự can thiệp đặc biệt như
Người đã từng cho mây rợp
bóng trên dân Ít-ra-en xưa (x. Xh 13,21; 14,19-20), hay
“rợp bóng” trên Đức Ma-ri-a vào ngày
sứ thần truyền tin sau này (x. Lc 1,35). +
Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng
về Người. Các ngươi hãy vâng nghe
lời Người: Lời này
nhắc lại lời Chúa Cha phán khi
Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Mt 3,17).
Nhưng ở đây còn thêm mệnh lệnh cho
các môn đệ: “Các ngươi hãy vâng nghe
lời Người”. Qua đó, cho thấy
Đức Giê-su chính là vị Mô-sê Mới thời
cánh chung sẽ xuất hiện thay thế cho Mô-sê cũ
thời Xuất Hành (x. Đnl 18,15). + Các môn đệ
kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất:
Thái độ và cử chỉ của các
môn đệ là phản ứng người ta thường
có khi tiếp xúc với Thiên Chúa (x. Xh 19,21; Is 6,5).
- C 7-9: + “Trỗi dậy đi, đừng sợ!”: Đức Giê-su đã ra
lệnh các môn đệ giống như khi
Người phục sinh đứa bé gái con viên
thủ lãnh (x. Mt 9,25). + Chỉ còn một mình
Đức Giê-su mà thôi: Khi tiếng nói
vừa dứt, thì mọi sự cũng tan
biến theo. Từ đây, chỉ còn một
mình Đức Giê-su là Thầy dạy của Luật
mới, Luật hoàn hảo và vĩnh viễn.
+
“Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho
đến khi Con Người từ cõi chết
trỗi dậy”: Lệnh truyền: “Đừng
nói cho ai hay thị kiến ấy” cho thấy một
mầu nhiệm lớn lao vừa
được mặc khải (x. Đn 12,4.9).
Có lẽ Đức Giê-su muốn tránh
sự xáo trộn về chính trị, vì dân
Do thái lúc bấy giờ đang trông chờ
một Đấng Thiên Sai đến giải phóng
họ khỏi ách thống trị của Rô-ma. Chỉ
sau khi Chúa Giê-su sống lại thì vai trò
của Người mới được
hiểu cách đúng đắn theo thánh ý Thiên
Chúa.
4. CÂU
HỎI:
1) Tại sao ba ông Phê-rô,
Gia-cô-bê và Gio-an lại được
Đức Giê-su cho chứng kiến cảnh
Người biến hình? 2) Núi cao nói
đây là núi nào? Thực ra, Núi
ở đây ám chỉ điều gì? 3)
Thời Xuất Hành, nhân vật nào cũng
được biến hình giống như Đức
Giê-su? 4) Việc Đức Giê-su biến đổi dung
nhan và áo mặc mang ý nghĩa gì? 5) Hai
ông Mô-sê và Ê-li-a là đại diện điều
gì? Nội dung hai ông đàm đạo với
Đức Giê-su xoay quanh đề tài nào? 6)
Lều là hình ảnh tượng trưng
điều gì? 7) Đám mây bao phủ các môn
đệ tượng trưng gì? 8) Lời
Chúa từ đám mây khẳng định thế
nào về Đức Giê-su? 8) Tại sao Đức Giê-su
đòi ba môn đệ phải giữ kín
điều họ mới được chứng
kiến?
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Rồi Người biến
đổi hình dạng trước mặt
các ông. Dung nhan Người chói lọi như
mặt trời, và y phục Người
trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt
17,2).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) CẦN
BIẾN ĐỔI BẮT ĐẦU TỪ BẢN THÂN:
Một
nhà giáo dục nổi tiếng người Pháp đã tâm
sự về cuộc đời của ông như sau: Khi còn
trẻ, tôi có tinh thần cách mạng và mỗi khi cầu
nguyện, tôi luôn cầu xin Chúa một điều là:
"Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
biến đổi thế giới này".
Khi
đã lớn tuổi và nhận thấy gần quá nửa
đời người trôi qua mà tôi không thay đổi
được một người nào hết, nên tôi đã
thay đổi lời cầu nguyện của tôi như
sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
biến đổi những người trong gia đình
của con.”
Giờ
đây tôi đã già và những ngày còn lại chỉ
đếm được trên đầu ngón tay, nên lời
cầu nguyện của tôi lại được thay
đổi một lần nữa như sau: "Lạy
Chúa, xin ban cho con nghị lực để biến
đổi chính mình con." Và ông kết luận: “Nếu
tôi biết cầu nguyện như thế này từ ngày còn
trẻ thì tôi đã không uổng phí cả cuộc
đời.”
(Anthony de Mello, Trích trong “The Song of the Bird”)
2) CÁI TÔI
ÍCH KỶ TỰ MÃN LÀ KẺ THÙ LỚN NHẤT:
Có
một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa
thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư
tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem
thường loài thỏ. Sư tử thường mắng
thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức
mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một
lần kia nó nói với sư tử rằng: “Thưa ông anh,
em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống
anh lắm. Nó bảo em rằng: "Trên đời này nó
chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt
với nó". Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư
tử tức giận và bảo rằng: "Thế mày có
nhắc đến tên tao không?"
Thỏ
trả lời: “Sao lại không? Em vừa nhắc
đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng
anh chỉ đáng đàn em nó thôi”.
Sư
tử càng tức điên người lên và hỏi: “Nó
ở đâu? dẫn tao đến ngay”.
Thỏ
liền dẫn sư tử ra phía sau núi, và chỉ một
cái giếng sâu và bảo: “Đấy, nó ở trong đó
đấy!”
Sư
tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm
tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông
thấy một tên sư tử cặp mắt giận
dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử liền
rống lên một tiếng ra oai và tên kia cũng rống lên
một tiếng giống như nó. Sư tử xù lông
cổ lên và tên kia cũng xù lông cổ lên không sợ hãi.
Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng
hăm dọa lại. Sư tử căm tức
đến tột độ liền dồn hết sức
nhảy phốc xuống giếng để cho thằng
khốn nạn kia một bài học. Thế là, con sư
tử ngạo mạn đã tự huỷ diệt
đời mình dưới giếng sâu không sao trèo lên
được nữa...
Trong
các thói hư thì thói kiêu ngạo đứng hàng đầu,
thể hiện qua thái độ luôn tự mãn về cái tôi
ích kỷ của mình, thích được người khác
khen ngợi xu nịnh hoặc hay tự đề cao mình
lên và coi thường người khác, luôn lấn át
những người thân cô thế cô hoặc những ai
yếu thế hơn mình.
3)
BIẾN TỪ THÁNH THIỆN NÊN XẤU XÍ CHỈ SAU HAI
NĂM SỐNG PHÓNG ĐÃNG:
Nhiều
người đã được trông thấy bức
ảnh rất nổi tiếng của nhà danh hoạ LEONARD
DE VINCI, trong đó có các hình ảnh của Chúa Giêsu với 12
tông đồ đang ăn Bữa Tiệc Ly. Sau đây là
câu chuyện về sự hình thành của bức tranh này:
Sau
khi sơ phác bức tranh, họa sĩ Leonard muốn tìm
một khuôn mặt nhân hậu bao dung và đẹp
đẽ, để làm mẫu vẽ khuôn mặt cực
thánh của Chúa Giêsu, thì may mắn làm sao: một ngày nọ
khi tham dự thánh lễ tại một nhà thờ nọ,
ông nhìn thấy trong đám ca viên hát lễ, có một thanh
niên tên Pietro Bandenelli, có nét mặt khôi ngô phi thường.
Sau một hồi tiếp xúc, cậu ta đã bằng lòng
theo họa sĩ về xưởng tranh để làm
mẫu cho ông vẽ khuôn mặt của Chúa Giê-su.
Sau
đó, họa sĩ tiếp tục dành nhiều thời
gian để vẽ các khuôn mặt 12 tông đồ. Khi
vẽ khuôn mặt của Giu-đa phản bội, ông tìm
mãi mà không thể tìm ra một con người có nét mặt vừa
gian ác vừa xấu xí để làm mẫu vẽ tông
đồ này. Một hôm khi đi qua một khu chợ, tình
cờ họa sĩ nhìn thấy một gã ăn mày bên
lề đường có khuôn mặt rất gian ác xấu
xa, quần áo nhếch nhác bẫn thỉu, đang giơ chiếc
nón ra xin ông làm phúc bố thí. Họa sĩ thầm nghĩ:
Có lẽ đây chính là kẻ mình muốn tìm. Dù có đi
hết các phố chợ trong thành phố cũng chẳng
thể tìm ra kẻ nào có khuôn mặt xấu xa gian ác hơn gã
ăn mày này. Ông đề nghị anh ta làm người
mẫu với một số tiền thù lao khá hậu
hĩnh và anh ta đã vui vẻ theo ông về xưởng
vẽ, giúp ông hoàn thành bức họa chỉ còn thiếu khuôn
mặt của Giu-đa phản bội.
Sau
khi đã ngồi làm người mẫu và nhận tiền
thù lao, trước khi ra về, gã ăn mày yêu cầu và
được họa sĩ cho xem bức tranh hoàn tất.
Đột nhiên gã ta bật khóc, và khi được
hỏi lý do thì gã đã tâm sự như sau: “Ông quên tôi
rồi sao? Cách đây hai năm, tôi cũng được
ông mời đến đây làm người mẫu giống
như hôm nay. Lúc đó ông đã khen tôi có khuôn mặt
đẹp như thiên thần và ông lấy tôi làm mẫu vẽ
khuôn mặt của Chúa Giêsu... Nhưng sau đó, tôi đã lỡ
dại nghe theo bạn bè, sa đà vào các thói hư như
rượu chè, hút chích, chơi bời trác táng và nợ
nần chồng chất. Tôi đã phải đi trộm
cướp rồi bị cảnh sát bắt đi tù. Khi
được thả, sức khỏe bị suy yếu và
không nghề nghiệp, tôi rơi vào cảnh đói khát
bần cùng, phải đi ăn xin như ông đã
thấy”.
Phải.
Đây chính là câu chuyện điển hình của một
cuộc biến đổi hình dạng: từ một khuôn
mặt tốt đẹp thánh thiện ban đầu
trở thành xấu xa gian ác chỉ sau hai năm chơi
bời trác táng!
4)
ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC VÀO THIÊN ĐÀNG LÀ
PHẢI BIẾN HÌNH NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU:
Cha
John Diamond một nhà giảng thuyết nổi tiếng bên
Mỹ có kể lại câu chuyện này: "Hôm đó có
một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở
thế gian cho nên linh hồn đi lên trước cửa
Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong
có tiếng hỏi vọng ra: "Ai đó"
Linh
hồn trả lời: "Con đây ạ" .
Cửa
vẫn đóng.
Sau
đó linh hồn lại trở về với đời
sống ở trần thế tìm thầy học
đạo. Sau một thời gian thấy mình đã
tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa thiên đàng
một lần nữa. Lại một tiếng hỏi
từ bên trong như lần trước và linh hồn
trả lời một cách quả quyết hơn:
-
Dạ chính con đây.
Cửa
vẫn đóng.
Linh
hồn lại phải trở về trần
thế...mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì.
Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới
thấy con đường của mình phải đi. Đó
là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ
về con đường đó. Đó là phải làm
chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, hay
tự mãn, hay ghen ghét của mình. Phải làm chết
đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và
đầy dẫy những ham muốn bất chính
để làm cho con người của mình dần dần
được giống Thiên Chúa là Cha ở trên trời
hơn.
Sau
một thời gian thấy mình quả thực đã không
còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời...lại
gõ cửa...lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng
ra:
-
Ai đó?
Vừa
nghe xong câu hỏi linh hồn đáp lại ngay:
-
Dạ thưa chính Chúa đấy ạ.
Vừa
trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên
đàng được mở ra và cả một đạo
binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào thiên
đàng.
5) LÒNG NHÂN ÁI CÓ GIÁ TRỊ
HƠN SỰ KHỔ CHẾ :
Một
vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh
đến độ suốt ngày không động
đến thức ăn, mọi người đều
nhìn thấy một ngôi sao sáng xuất hiện ngay giữa
ban ngày. Đó là dấu hiệu trời cao đã chấp
nhận tinh thần khổ chế của vị ẩn
sĩ.
Ngày
nọ, vị ẩn sĩ quyết định sẽ leo
lên đỉnh núi để gia tăng giá trị cho sự khổ
chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một bé gái trong làng
chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối
được, vị ẩn sĩ đành để cho em bé
cùng đi. Thầy trò bắt đầu leo núi khi mặt
trời mọc. Nhưng chẳng mấy chốc, ánh
nắng mỗi lúc một thêm chói chang, hai thầy trò đều
cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn
cố gắng khắc phục cơn khát bằng sự
nhịn uống của mình, nhưng khi thấy cô bé, ông giục
cô uống nước cho đã khát. Nhưng cả hai
đều không uống giọt nào: Vị ẩn sĩ không
uống nước vì lời thề khổ chế của
mình, còn bé gái lại không nỡ uống một mình. Rồi
sau đó càng đi thì cơn khát lại càng dằn vặt.
Đến lúc vị ẩn sĩ không nhẫn tâm thấy cô
bé quằn quại trong cơn khát, nên ông đành lỗi
lời thề, cầm lấy bình nước đưa lên
miệng và cô bé liền bắt chước cùng uống nước
với ông.
Sau
khi uống nước, vị ẩn sĩ cảm thấy
có lỗi và không dám nhìn lên trời cao, vì nghĩ ngôi sao luôn hiện
ra chứng giám sự khổ chế của ông, có lẽ
đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước
nhìn lên đỉnh núi phía trước, thì càng ngạc nhiên hơn
khi có hai ngôi sao đang chiếu sáng thay vì một ngôi.
Thì
ra việc uống nước để cô bé uống
nước theo không mất khổ chế mà còn gia tăng
giá trị sự khổ chế lên gấp đôi.
3. SUY
NIỆM:
1) Câu
chuyện biến hình trên núi của Đức Giê-su:
Tin
Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giê-su biến
hình trước mặt ba môn đệ thân
tín là các ông: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an.
Chính khi ở trên núi cao và đang khi Đức
Giê-su cầu nguyện sốt sắng, mà khuôn mặt
của Người biến đổi: Dung nhan Người
trở nên sáng ngời như Mô-sê xưa kia, sau khi
gặp gỡ Đức Chúa (x. Xh 34,29-35); Y
phục của Đức Giê-su trở thành trắng
tinh như ánh sáng biểu hiện vinh quang thiên
giới; Đồng thời hai nhân vật đại
diện Lề Luật và ngôn sứ là ông Mô-sê
và ông Ê-li-a đã hiện ra đàm đạo với
Người. Như vậy tất cả Cựu
Ước đều hiện diện để
làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su.
Điều đáng lưu ý là hai vị này
đã đàm đạo về cái chết của
Đức Giê-su, như một cuộc Vượt Qua
Mới mà Người sắp trải qua tại
Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra còn có đám mây
tượng trưng cho sự hiện diện
của Thiên Chúa, và tiếng phán của Chúa Cha từ
đám mây xác nhận Đức Giê-su là con
rất yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha.
2) Luôn làm
theo ý Chúa Cha là “Qua đau khổ vào vinh quang”:
Đức
Giê-su được biến hình sau khi đã
chiến thắng ma quỷ cám dỗ qua lời ông Phê-rô
can ngăn (x. Mt 16,22-23). Người cương
quyết chọn “Qua đau khổ và trong vinh quang” theo ý
Chúa Cha. Còn chúng ta hôm nay, để
được thay hình đổi dạng nên tốt
lành thánh thiện như Đức Giê-su, chúng ta cần
chấp nhận đi theo con đường thập
giá nhỏ hẹp leo dốc. Cần cầu xin ơn Thánh
Thần trợ giúp, năng đọc và suy niêm Lời
Chúa, sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa.
Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ
được tham phần vào vinh quang phục sinh
với Người.
3) Điều
kiện để được biến đổi nên
giống Chúa:
-
Ngày nay, muốn được “biến hình” trở nên “con
yêu dấu của Thiên Chúa”, chúng ta cần làm theo lời Chúa
Cha phán trên núi là : “Hãy vâng nghe lời Người”.
-
Không chỉ nghe bằng tai, bằng mắt mà nhất là bằng
trái tim: luôn suy nghĩ và hành động theo gương
mẫu và lời dạy của Đức Giê-su trong khi
dự lễ hằng ngày.
-
Cũng cần nghe đọc Lời Chúa trong giờ kinh
tối gia đình hằng ngày và năng tham dự buổi “học
sống Lời Chúa” chung cộng đoàn hằng tuần
tại nhà Sinh Hoạt Mục Vụ…
4) Thực
hành Lời Chúa Cha : “Các ngươi hãy vâng nghe lời
Người”:
Trong cuộc sống đời
thường, hãy năng thưa với Chúa Giê-su như trẻ
Sa-mu-en thưa với Đức Chúa trong Đền thờ
: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán,
vì tôi tớ Ngài đang
lắng nghe'' (I Sm 3,9), hoặc như ông Sau-lô thưa với Chúa Phục Sinh sau khi
bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát: “Lạy
Chúa, con phải làm gì?” (x. Cv 22,10).
-
Mỗi khi gặp hoàn cảnh mà ta không biết phải ứng
xứ thế nào theo thánh ý Thiên Chúa, chúng ta hãy thưa
với Chúa Giê-su: “Lạy Chúa, nếu Chúa ở
trong hoàn cảnh của con bây giờ thì Chúa
sẽ làm gì?”. Rồi lắng nghe Lời Chúa phán
trong tâm trí và quyết tâm thực hành theo lời Chúa dạy.
-
Ngoài ra chúng ta còn cần làm các công tác bác ái xã hội và tông
đồ truyền giáo được trao phó.
4. THẢO
LUẬN:
1) Chúng
ta cần biến đổi những gì trong việc sống
đạo, để xứng đáng
được Thiên Chúa công nhận là “Con rất
yêu dấu” như Đức Giê-su ? 2) Chúng ta cần làm
gì để vâng nghe lời Đức Giê-su như
Chúa Cha đã truyền cho các môn đệ hôm nay ?
5. LỜI
CẦU:
-
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa muốn chúng con
thực thi giới răn quan trọng nhất
là sống tình yêu thương tha nhân. Tuy nhiên, nói
thì dễ mà thực hành lại không dễ chút
nào. Thực vậy: Làm sao chúng con có thể yêu thương
được một người hàng xóm
lắm điều xấu tính; Một ông chồng
khó ưa hay bẳn gắt nạt nộ vợ
con; Một người mua hàng tham lam gian dối; Một
bà hàng xóm tò mò tọc mạch, hay nói
thêm nói bớt để hạ uy tín của chúng con… ?
Xin giúp chúng con luôn nhẫn nhịn chịu
đựng, biết cầu nguyện điều
lành cho họ, làm điều tốt đáp lai
điều xấu. Ước gì những
lời nói của chúng con luôn là
những lời an ủi động viên
những người đang gặp đau
khổ rủi ro. Ước gì chúng con biết
quảng đại chia sẻ tiền bạc vật
chất cho những bệnh nhân nghèo đói
vì mắc chứng bệnh nan y. Ước
gì chúng con biết mở rộng vòng tay
thân ái đón nhận tha nhân và nhìn họ chính
là anh chị em, là con cùng một Cha Chung trên
trời là Thiên Chúa.
-
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con.
Mỗi
lần con ngắm nhìn Chúa, xin biến đổi con nên
hiền lành và bao dung như Chúa.
Mỗi
lần con rước lễ, xin biến đổi môi
miệng con luôn ăn nói dịu dàng dễ nghe.
Mỗi
lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con luôn
mở ra để lắng nghe tha nhân.
Lạy
Chúa. Xin làm cho khuôn mặt con nên ngời sáng giống như
Mô-sê sau khi được gặp Chúa.
Ước
chi mọi người nhìn thấy tình thương bao dung của
Chúa trong nụ cười của con,
Ước
chi mọi người nhìn thấy sự cảm thông của
Chúa trong lời nói của con.
Xin
cho con kiên trì đồng hành với Chúa trên mọi nẻo
đường cuộc sống đời thường,
và
sẵn sàng hợp tác với nhau để phục vụ những
ai bị tật bệnh, đau khổ và bất hạnh.- Amen.
LM ĐAN VINH -
HHTM
|