Bài học tiết
kiệm – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phép lạ “Hóa bánh ra nhiều” có nội
dung phong phú về Thần học và Giáo lý Bí Tích Thánh
Thể, đồng thời cũng chứa đựng
rất nhiều bài học về Nước Trời,
về Dân Thiên Chúa, tình liên đới, sự cộng tác...
Hôm nay xin được chia sẻ về bài học
tiết kiệm.
1. Chúa
dạy bài học tiết kiệm
Phép lạ hoá bánh ra nhiều
được bốn thánh sử ghi lại cả trong
bốn Phúc âm (Mt 14,13-21; Mc 6,31-34; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13). Matthêu và
Maccô còn kể thêm lần thứ hai Chúa làm phép lạ hóa bánh
ra nhiều. (Mt 15,32-38; Mc 8,1-10).
-
Lần
thứ nhất, Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều;
cả ba thánh sử Mátthêu, Máccô, và Luca đều ghi
nhận: sau khi dân chúng được ăn bánh no nê, người
ta đã không bỏ phí những mẫu bánh còn dư thừa
nhưng “đã thu lại tất cả được
mười hai thúng đầy” (Mt 14, 20; Mc 6,43; Lc 9, 17). Riêng
thánh Gioan nhấn mạnh, chính Chúa Giêsu đã ra lệnh cho
các môn đệ: "Anh em (hãy đi) thu lại những
miếng thừa kẻo phí đi” (Ga 6,1-12). “Họ liền
đi thu những miếng thừa…và được
mười hai thúng đầy”.
-
Lần
thứ hai, Chúa Giêsu làm phép lạ cho bánh hóa nhiều,
người ta cũng thu lượm lại tất cả
những mẫu bánh thừa, tất cả “được
bảy thúng đầy” (Mt 15,37; Mc 8,8). Năm ngàn
người đàn ông không kể đàn bà con nít. Số
người phải là đông lắm. Hơn cả
chục ngàn người. Có ngàn ngàn chiếc bánh
được phát ra. Bánh nhiều như vậy, tại
sao Chúa Giêsu lại tiếc những miếng bánh vụn còn
dư? Tại sao Chúa lại bảo thu lại những mãnh
vụn: “Anh em hãy thu lấy những miếng thừa
kẻo phí đi”?.
Chắc chắn nguyên nhân của phép
lạ hoá bánh ra nhiều là: “Ta thương đoàn dân này”,
vì “Ta không muốn để họ đói”, vì “Ta sợ
rằng họ lả dọc đường” (Mt 15,32).
Chúa Giêsu quý những mẫu bánh vụn
vì nó là phép lạ Chúa đã làm. Những phép lạ là tình
thương,là ơn sủng,là ơn cứu độ
của Chúa trao ban.Tình yêu và ân sủng như ngọn pháo
bông, khi tung vỡ trên bầu trời tạo thành trăm
ngàn vụn nhỏ càng rực rỡ huy hoàng. Khi tấm bánh
được bẻ ra trên bàn thờ, bánh thánh nhỏ bé
mỏng manh nhưng vẫn đầy tràn quyền năng
và ơn thánh.Khi hiến lễ đền tội cho nhân
loại của Đức Kitô trên đồi Calvê tan ra,vóc
dáng Chúa Cứu Thế sụp xuống, đó cũng chính là
lúc ơn cứu độ như nắng vỡ, lan ra,
chảy tràn kín vũ trụ.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn.
Chúa bảo thu lại để dạy các môn đệ và
chúng ta bài học tiết kiệm. Những người
vừa trải qua cơn đói, nay được một
bữa no nê. Họ vất bỏ những mẫu bánh dư
thừa. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Chúa
Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những
mẫu bánh thừa. Tiết kiệm là trân trọng
những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức
của cải là của mọi người. Tiết
kiệm thể hiện sự quý trọng kết quả
lao động của bản thân và của người
khác.
Chúa Giêsu quý những mảnh bánh vụn.
Chúa bảo các môn đệ thu lại để dạy
chúng ta đừng lãng phí ân huệ Chúa ban. Sự sống,
sức khoẻ,thời gian,tài năng,trí tuệ, tài nguyên
đều là ân huệ được ban tặng,cần
trân trọng nâng niu gìn giữ.Trong ơn sủng của Chúa
không có gì là những mẫu vụn bé nhỏ tầm
thường. Đức Hồng Y FX. Nguyễn Văn
Thuận đã từng khuyên rằng: “Muốn nên Thánh, con
hãy làm những việc thường, có khi xem ra vô ý nghĩa
nhất. Nhưng con đặt vào đó tất cả
niềm mến yêu của con” (ĐHV 814); “Nhìn cây cổ
thụ sum sê, con đừng quên rằng, từng trăm
năm trước nó đã khởi sự từ một
hạt giống tí ti” (ĐHV 816); “Tự nhiên có ai lên
đỉnh núi Hy mã lạp sơn được? Tự
nhiên có ai lên cung trăng được? Thử thách,
hiểm nguy, ôn luyện, chuyên cần mỗi ngày, nhiều
ngày mới đạt được đích họ hy
vọng”. (ĐHV 817).
2.
Tiết kiệm và lãng phí
Tác giả Gã Siêu viết: “Muốn phát triển,
phải cần kiệm. Đó là qui luật của muôn
đời. Các nước văn minh đã sống qui
luật này một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ”. Ở
bên Mỹ, trong các trường tiểu học,
người ta đã dạy cho con nít biết: Muốn có
một đồng thì phải bắt đầu từ
một xu; Muốn có một triệu thì phải bắt
đầu từ một đồng. Ở bên Nhật
cũng vậy. Trong các gia đình, người ta luôn
nhắc nhở con cái sống theo phương châm: Mua gì
ăn nấy; Ăn đâu hết nấy; Không để
thừa mứa, lãng phí. Ở bên Israel cũng thế. Vào các nhà hàng, khách
sạn, người ta không thấy đồ ăn
thức uống để dư. Ngay tại các bến xe,
bến tàu đều có những khẩu hiệu: Hãy
tiết kiệm điện; Hãy tiết kiệm
nước… Tại các công sở và xí nghiệp, để
trừ khử thói lề mề, người ta trừ ngay
vào lương những ai đến làm việc chậm
trễ.
Thấy người mà nhớ tới ta.
Trên báo “Tuổi trẻ Chủ nhật”,
tác giả Phạm Đình Nghiệp đã đưa ra
một vài trường hợp lãng phí điển hình. Trước
hết, đó là việc lãng phí sức người,
được thể hiện dưới nhiều
dạng vẻ khác nhau: thất nghiệp, lao động
trái ngành, chéo nghề được đào tạo, sử
dụng nhân lực bất hợp lý, nhân tài không
được trọng dụng, chảy máu chất xám…
Tiếp đến là việc lãng phí tài sản, tiền
bạc của dân và của nước. Người ta
sẵn sàng tiêu phí hàng chục triệu đồng “của
chùa” cho một đêm liên hoan gặp gỡ hay chia tay nào
đó.
Việt Nam chúng ta là một đất nước
có thu nhập quốc dân tính theo đầu người vào
loại thấp nhất, nhưng đã “hội tụ”
được đủ mặt các loại bia ngon
nhất. Trong nhiều cuộc “bù khú” nhậu nhẹt,
người ta thi nhau không phải uống bia, mà là “gội
bia”, “tắm bia” với hàng chục, thậm chí hàng trăm
lít.
Hằng ngày chúng ta đã chứng
kiến biết bao nhiêu cảnh lãng phí tiền bạc, làm
nghèo cho dân cho nước. Cơ quan nào, xí nghiệp nào
cũng cố xây cho mình những cơ sở bề thế
và lộng lẫy. Hễ có chức một tí là vội
sắm cho mình những chiếc xe đời mới
đất tiền, trang bị cho mình điện thoại
di động, đúng với “mô đen” thời
thượng mà nghênh ngang với đời.
Mới đây, trên báo “Tuổi trẻ
cười”, có một bài mang tựa đề “hình như
là lãng phí”, tác giả đưa ra một sự
kiện…rất bình thường nhưng lại rất xót
xa. Đó là bộ giáo dục năm nào cũng đổi
mới, năm nào cũng cải cách, nên năm nào số
sách giáo khoa mới in ra cũng được tha hồ
đem bán ký. Tác giả viết: “Ai ngờ đâu, tôi
bỗng trở thành người thu gom giấy phế
liệu để kiếm sống và đến nay tôi
đã cân cả tấn sách giáo khoa còn thơm mùi giấy
mới. Ở đủ mọi lớp, thuộc đủ
loại môn học. “Vốn dòng họ “tiếc”, mỗi khi
gặp loại sách mới này (mà gặp hoài), tôi đều
lấy mẫu về cho con tôi, nhưng chúng lại bảo:
Không phải loại sách của trường con (dù đúng
cấp, đúng lớp của chúng). Nhìn lại bìa thì
thấy là của bộ Giáo dục và năm xuất
bản mới cách đó một hai năm mà thôi!!! “Tôi
nhớ ngày xưa, khi anh tôi vào lớp 12, tôi vẫn xài sách
lớp 7 của anh ấy để lại. Và khi tôi lên
lớp 12, tôi vẫn xài sách anh ấy đã xài mà không có
trở ngại gì và vẫn “anh dũng” thi đậu, cha
mẹ vui mừng khỏe re… Ôi sao mà dễ dàng tiện
lợi và đỡ tốn kém quá cho cho mẹ và lớp
học sinh thập niên 60, 70.
“Tôi đã qua cái cảnh ba ngày ròng đi
tìm một cuốn sách học cho đứa cháu mới
lớp 4. Nhiều lần nhịn ăn nhịn uống
để dành tiền mua sách học cho con và bây giờ
đứng trước hằng trăm ký sách giáo khoa
chưa có tay người lật mà đành cân ký làm giấy
gói đồ, hỏi sao không xót cho học sinh, phụ huynh
đất nước? “Tôi cũng rất ngạc nhiên phát
hiện ra chỉ một môn học ở lớp 3, lớp
4 mà có đến ba, bốn thứ sách. Nào là quyển bài
giải, bài mẫu … rồi quyển cho giáo viên … tất
cả còn mới nguyên mà đem cân ký, không biết vì lý do gì
và có lãng phí không? “Năm nào đọc báo cũng thấy
bộ giáo dục than thiếu tiền, thiếu giấy in,
thiếu sách cho học sinh đến độ có những
cuộc phỏng vấn tùm lum về vấn đề này.
Ấy thế mà năm nào tôi cũng có dịp cân hết
trăm ký lô này đến trăm ký lô khác sách giáo khoa … lòng
tôi không khỏi cảm thấy bùi ngùi”.
Trên đây là những chuyện lãng phí
của quí vị có chức, tai to mặt lớn. Còn trong
phạm vi cá nhân, gã cũng nghiệm ra còn có nhiều
loại lãng phí khác nữa, mà chính bản thân gã cũng
đã từng mắc phải. Gã chỉ xin đưa ra
một thí dụ điển hình mà thôi, đó là lãng phí
thời gian. Người Tây thì bảo: Le temps, c’est l’argent.
Thời giờ là bạc. Còn người Tàu thì nói: Nhất
thốn quang âm nhất thốn kim. Một tấc thời
gian là một tấc vàng. Thế nhưng, lắm lúc
người ta đã không ý thức được sự
quí giá của thời gian nên đã lãng phí nó một cách lãng
xẹt. Nơi gã đang cắm dùi là một thị
trấn chỉ nhỏ bằng chiếc móng tay, thế mà có
đến mấy chục quán cà phê. Đường nào
cũng có, góc phố nào cũng có. Bất kể sáng,
trưa, chiều và tối, hễ đặt chân ra
đường hay xuống phố, đều thấy quí
vị thanh niên ngồi thiền ở trong những quán
ấy. Đáng lẽ ra: Đâu cần thanh niên có, đâu khó
có thanh niên.Thế nhưng, quí vị này lại chẳng
biết làm gì cả, ngoài việc giết thời giờ
trong quán, nhấm nháp vị đắng cà phê và đốt
những điếu thuốc, lim dim thả hồn theo khói,
ra dáng siêu nhân hay người cõi trên chi đó. Tiếp
đến là quán nhậu. Mỗi bữa nhậu kéo dài hai
ba tiếng đồng hồ, quả là lãng phí. Hồi
xưa thấy một kẻ say xỉn ngoài
đường phố quả là chuyện họa hiếm,
còn hôm nay lại là chuyện thường ngày ở
huyện. (Nguồn: dunglac.org).
Lafontaine kể câu chuyện ngụ ngôn.
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, khi mùa
đông trở về gió bấc thổi tới, nó bị
chết đói. Trong khi đó dòng họ nhà kiến, suốt
ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt
gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống
vẫn được bảo đảm an toàn.
3.
Cần phải tiết kiệm
Linh mục Nguyễn Hồng Giáo
viết: “Ý thức về tiết kiệm (một hình
thức của sống nghèo) nói chung còn kém nơi tu sĩ,
chủng sinh và linh mục ngày nay. Có vẻ như nhiều
người không coi đó là chuyện quan trọng,
được nhắc nhở thì để ý, xong rồi
lại đâu vào đó, rất khó “đưa vào bộ
nhớ”. Trời không lấy gì làm nóng, nhưng hễ vào
phòng là mở quạt máy. Nhiều khi tập vở viết
chưa hết, cái áo, cái quần, đôi dép cũ còn dùng
tốt được nhưng đã bị phung phí vất
đi. Cả một chồng sách báo cũ có thể
để cho người thu mua đồ vụn hay ít
nhất đưa cho nhà bếp làm mồi lửa, vẫn
đem đốt một cách “vô tư”. Từ xưa,
tục ngữ Việt Nam có câu: xài của chùa. Nghĩa là xài mà
không phải trả tiền nên cứ việc thoải mái,
khỏi cần chừng mực, tiết kiệm. Và cha chung
không ai khóc, của chung không ai quan tâm. Tâm lý đó không
chỉ phổ biến nơi cán bộ công chức (như
được phản ánh trên Tuổi Trẻ) mà cả
nơi quần chúng nhân dân và … trong các tập thể Giáo
Hội ta nữa. Trong nội bộ chúng ta cũng có
những lãng phí rất quen thuộc. Như khi làm thiệp
báo tin một lễ mừng nào đó, người ta thích in
thật hoành tráng (giấy sang, in hai ba màu…) dù biết
rằng người nhận coi xong là bỏ.
Thật tế nhị, nhưng tôi xin nói
tới tiệc tùng trong giới Công giáo ta. Tiệc quá to,
rất tốn kém và thường là thừa thãi.
Nước ta xưa kia rất nghèo, người dân ăn
không no, mặc không ấm nên rất chú trọng chuyện
ăn uống. Tuy thế, hay chính vì thế mà lại có tâm
lý coi miếng ăn là miếng nhục (muốn ăn
lắm nhưng phải làm ra vẻ không cần để
tránh làm cho người khác đánh giá mình vì chuyện ăn
uống…). Tây phương thì khác. Họ giàu nên các tiệc
tùng của họ thường rất đơn giản,
chỉ dọn vừa đủ ăn. Ăn uống
chỉ là một phần của cuộc họp mặt.
Ở nước ta, dù đã bắt đầu có thay
đổi, nhưng tâm lý chung của người Việt
vẫn còn thích phô trương, thích giữ thể diện
bằng vẻ hào nhoáng bên ngoài, đặc biệt trong
tổ chức tiệc tùng, phải mâm cao, cỗ
đầy, càng nhiều món càng sang cho dù biết
trước là sẽ thừa mứa. Và tục lệ xã
hội vẫn còn gây áp lực nặng nề. Có những
lễ tạ ơn tân linh mục dọn bảy, tám
chục mâm, thậm chí cả trăm và hơn nữa.
Thời nay việc truyền chức
linh mục trở thành chuyện bình thường, có nên bình
thường hoá việc ăn mừng không? Thay đổi
một tục lệ xã hội là rất khó. Có khi chính
người trong cuộc cũng rất ngại, rất lo
khi phải tổ chức linh đình tốn kém, nhưng
họ khó có thể làm “cách mạng” …! Tôi nghĩ nếu có
một chủ trương chung nào đó từ trên
xuống, - dòng tu, giáo xứ, địa phận - thì
người giáo dân chắc sẽ chấp nhận. Đây
mới chỉ nói tới tạ ơn tân linh mục,
nhưng khấn dòng, lễ vàng, lễ bạc, các lễ
kỷ niệm này nọ và lễ cưới cũng
thuộc diện này. Giáo Hội Việt Nam có nên đi trước xã hội trong
vấn đề này không? Nhờ cơ cấu tổ
chức rất chặt chẽ và uy tín rất lớn
của hàng giáo sĩ đối với giáo dân, thiết
nghĩ nếu Giáo Hội quyết tâm và quyết liệt,
cơ may thành công sẽ rất lớn. Đây cũng là
nhiệm vụ giáo dục con người của Giáo
Hội có thể làm ngay, không cần đợi đến
khi được phép chính thức mở trường
mở lớp. (Nguồn: nguoitinhuu.com).
Tiết kiệm khác với hà tiện,
keo kiệt, bủn xỉn. Tiết kiệm là biết
sử dụng một cách hợp lý, đúng mức của
cải vật chất, thời gian, sức lực của
mình và của người khác. Tiết kiệm thời gian,
tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền
của. Người Ý nói: Sự sung túc có được do
hai bàn tay. Bàn tay này là tài năng, bàn tay kia là tiết
kiệm. Người Thổ Nhĩ Kỳ bảo:
Người ta trở nên giàu có, đó là do cần cù lao
động và biết tiết kiệm trong chi tiêu.Tại
nơi mở trương mục tiết kiệm ở các
ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái
ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những
đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ
sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ
nhân những trái trứng bằng vàng.
Tiết kiệm đi chung với
giản dị. Sống giản dị là sống phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân,
gia đình và xã hội. Người giản dị thì không
xa hoa, không lãng phí, không chạy theo những nhu cầu vật
chất và hình thức bề ngoài. Sống giản dị
sẽ tiết kiệm được thời gian, tiền
của, công sức để làm những việc có ích cho
bản thân, cho gia đình và xã hội. Người tiết
kiệm sẽ biết sống giản dị phù hợp
với hoàn cảnh bản thân, gia đình, xã hội.
Việc nhỏ mà mỗi người
chúng ta có thể thực hiện dễ dàng trong cuộc
sống thường nhật, đó là sử dụng
điện, nước, của cải vật chất một
cách hợp lý, biết dùng thời gian vào những việc
có ích và biết gìn giữ của công.
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa, đây là ước mơ của con về thế
giới:
-
Con mơ ước tài nguyên
của cả trái đất này là thuộc về mọi
người, mọi dân tộc.
-
Con mơ ước không còn
những Ladarô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là
người giàu yến tiệc linh đình.
-
Con mơ ước mọi
người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường hay
những người ăn xin.
-
Con mơ ước những
người thợ được hưởng
lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như
anh em.
-
Con mơ ước tiếng
cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi
nghỉ.
Lạy
Chúa của con, con ước mơ một thế giới
đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời,
xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu
Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp
con thực hiện những ước mơ đó. Amen (Mana).
|