Giá trị
vô song – Lm.
PX. Vũ Phan Long
Tất cả các dụ
ngôn đều ưu tiên mạc khải về Đức
Giêsu, là biến cố trung tâm của lịch sử,
biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung
kết giữa trời với đất.
1.- Ngữ cảnh
Diễn từ
của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ
đến các khó khăn và những ngờ vực xuất
phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh
hiện tại và các nỗi chờ mong nhắm đến
Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi
Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của
Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng
định, thì tại sao sứ điệp của
Người không được mọi người vui
mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không buộc
người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một
loạt những chiến thắng lẫy lừng? Tại
sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong
dụ ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã
cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có
thể sinh hoa kết quả trên một mảnh đất
tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ
điệp cốt yếu tùy thuộc những
người đón nhận sứ điệp và tùy
thuộc cách sống của họ. Với các dụ ngôn
Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng
một khởi đầu bé nhỏ không loại trừ
một sức phát triển to lớn và một khả
năng đạt hiệu quả lớn lao. Các dụ ngôn
Cỏ lùng giữa lúa tốt và Lưới cá cho thấy
rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ
xấu ở bên nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá
trị cao vời của Nước Trời, niềm vui vô
biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy
và sự dấn thân phải có khi đã thuộc về
Nước Trời, tất cả những điểm này
đều được làm sáng tỏ xuyên qua các dụ
ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại
bỏ các hiểu lầm và giúp các thính giả có lối
sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia
bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),
b) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),
c) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới
được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
Hoặc cũng
có thể cho rằng bản văn có năm đơn
vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu
(13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý
(13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc
lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới
được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52)
3.- Vài điểm chú giải
– Nước Trời giống
như một kho báu
(44): Không phải là Nước Trời được ví
với một kho báu, nhưng là “những gì xảy ra” khi
một người khám phá ra một kho báu được
so sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải
xảy ra) khi một người khám phá ra Nước
Trời.
- kho báu chôn giấu trong
ruộng (44): Vào
thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít
nhà băng, hơn nữa Paléttina lại phải chịu
nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai
Cập và Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an
toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó, thỉnh
thoảng, có người khám phá ra một khối của
cải chôn dưới đất, chẳng hạn một
cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các
loại đá quý.
- thương gia (45): Emporos là người buôn bán
sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào thời
Đức Giêsu, ngọc quý thường được
nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47): Sagênê, “chiếc lưới”,
có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng
khoảng 2m; mỗi đầu có thắt một sợi
dây.
- thả xuống
biển (47):
Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe aoriste
passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ
với dạng ấy có nghĩa là chiếc lưới
đã được thả xuống biển rồi, và do
chính Thiên Chúa thả.
– Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn Người
gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác
giả gán cho động từ “hiểu”. Ở đây,
Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì
Người đã nói bằng dụ ngôn cho đám đông.
Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”.
Ngữ cảnh cho thấy là những người trả
lời là những môn đệ đã hỏi Đức
Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không nêu ra
chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ
bất cứ độc giả nào, bất cứ Kitô
hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người
ta đi từ tình trạng “đám đông” sang tình trạng
“môn đệ”.
- kinh sư (52): Cộng đoàn Mt đã có
những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô:
16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có
thể trong lòng cộng đoàn cũng có các “thầy
dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng
đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn
nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải,
Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất
giống nhau.
* Dụ ngôn 1 và 2: Kho báu
chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì
Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và
ngọc quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có
thể
đây là
một người thợ đi cày trong ruộng của
người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm các
đồng tiền và vật trang sức được chôn
trong ruộng. Dĩ nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không
bao giờ dám mơ tới khối của cải này.
Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một
phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan
trọng là việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng
hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng
cũng như mọi lo toan để thủ đắc cho
được thửa ruộng. Cách xử sự của
nhân vật này không lương thiện về mặt luân
lý, nhưng điều này không làm tác giả bài dụ ngôn
phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một
hoạt cảnh của đời thường, như sau
này Người kể truyện người quản lý
bất lương, những người làm vườn nho
sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý.
Điều này ta thấy rõ nơi truyện người
đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì
đến tính luân lý. Trong cả hai trường hợp
(khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn
đề được đề cập là khám phá ra và
nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá
trị lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện
một người hết sức vui sướng hy sinh
tất cả những lợi lộc và vận dụng
mọi phương tiện mà thủ đắc một
điều gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc.
44.46). Điểm nhắm của tác giả các dụ ngôn là
điểm ấy. Đấy chính là Nước Trời;
Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài
sản nào.
Trong sứ
điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan
báo rằng Thiên Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với
quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là
Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự
trong tay. Mặc dù thế giới đang có những vô
trật tự, những sự dữ và những tai
họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta
và muốn ban cho chúng ta được thành công trọn
vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với
Ngài. Thực tại này trước tiên phải
được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại
này chính là một kho báu được chôn giấu; tự
nó, nó không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều
thứ khác lôi cuốn hơn nhiều, dường như
quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta
phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh
phục bởi sự kiện Thiên Chúa, tình yêu của Ngài
đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng
ta với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ
bị vượt quá. Với sự hiểu biết này,
niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia
tăng ước muốn được đi vào làm
chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy
không phải là phần thưởng cho chúng ta. Chúng ta
chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận
dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải
để tự nhiên mà có sự kiện chúng ta thuộc
về Thiên Chúa. Có biết bao ước muốn, mục
tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng
ta, nhưng chúng ta phải đặt chúng đàng sau để
thuộc về Thiên Chúa. Trên tất cả mọi sự,
cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên
kết với Ngài và chịu trách nhiệm trước
mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia
đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội,
của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc,
những thú vui… không phải là những giá trị và tiêu
chuẩn tối hậu, nhưng phải được
đưa vào trong dây liên kết với Thiên Chúa và được
cứu xét trước nhan Ngài và theo ý muốn của Ngài.
Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa,
mà chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức
sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của
việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui, cho dù có
những mệt nhọc, bề bộn với công việc
và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc
lưới và Dụ ngôn Chiếc lưới
được giải thích (47-50)
Dụ ngôn
Chiếc lưới song song với dụ ngôn Lúa tốt
vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những
vấn đề như nhau. Trong dụ ngôn trước,
“cánh đồng” tượng trưng Nước Trời;
trong dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.
Tại hồ
Ghennêxarét, có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn
ở trong hồ hoặc ở trong lưới, chúng bơi
loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn
được, có thứ không. Nhưng điều này không
có nghĩa là chúng luôn luôn như thế. Khi lưới
được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi
lựa: cá tốt thì được gom lại, cá xấu
thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các
dân chài có thể khiến nhớ tới tư thế
“ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31;
26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”)
khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái
của chúng (x. 7,16-20; 12,33), hiểu là các việc làm
hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này, Đức Giêsu
lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét
cuối cùng và về số phận hoàn toàn khác nhau của
người tốt và người xấu. Ở đây,
trên mặt đất này, dường như chúng ta có quan
tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì;
giữa người tốt và người xấu, không
hề có sự phân biệt nào. Dường như tốt
xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu,
tượng trưng Nước Trời, là một cộng
đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý chúng
ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng
tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như
thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có
một cuộc phân biệt rõ ràng, nên hãy sống hôm nay
thế nào để khi đến cuối, anh em
được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra,
việc Người giảng dạy đã là một tiên báo
về phán xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có
một đám đông “đã tụ họp lại” (“gom cá”)
trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và
nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã
gây ra sự phân biệt giữa dân chúng và các môn đệ.
Cuộc phân biệt này báo trước cuộc phán xét sau
này. Những gì Đức Giêsu đã gây ra lúc này sẽ
được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận
dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một
chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các
thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu vào lò lửa” (x.
13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì sự hiện
diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi
họ bằng cách cho biết rằng cuộc phán xét cánh
chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ tái
lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn:
Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn
Vị kinh sư này là một câu trả lời cho câu
hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36).
Họ là những người đã hiểu sứ
điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu.
“Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý
nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho nên hiện
thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như
thế, các môn đệ đã trở thành những
người thực sự bước theo Đức Giêsu,
họ đã là “con cái Nước Trời” (c. 38). Do đó,
họ cũng là những kinh sư mới, những
thầy dạy mới trong Nước Trời. Kinh sư
Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia)
lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình.
Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự
giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả
các dụ ngôn đều nói với chúng ta về
Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc
khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm
của lịch sử, biến cố đánh dấu
cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với
đất: nơi Đức Giêsu, Nước Trời
vĩnh viễn đến gần con người. Các bài
dụ ngôn cũng cho thấy rằng việc từ bỏ
theo Tin Mừng không phải là phương tiện
để đạt tới Nước Trời, nhưng
là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự lộn
xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết
bao giá trị và mục tiêu xuất hiện ra như là quan
trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc.
Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ.
Người cho thấy điều gì là quan trọng, chúng
ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn
của mình vào chuyện gì. Điều quan trọng là luôn
luôn sống với tinh thần trách nhiệm và đặt
quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta.
Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc
không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải chỉ là dời các
giá trị khác ra phía sau để nhường bước
cho giá trị lớn là Nước Trời, nhưng là coi
mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá
trị duy nhất là Nước Trời. Người ta
chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng
Nước Trời là “tất cả” trong cuộc đời, cần
thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết
như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí.
Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm ngắm sự cao
cả của Nước Trời thì không đủ, còn
cần phải quyết định, phải chọn
lựa, phải nỗ lực suốt đời
để chiếm lấy giá trị này. Truyện
người thanh niên giàu có minh họa rất rõ điểm
này (Mt 19,21.27.29).
2. Nước Trời là một điều thiện
hảo được đặt vừa tầm tay mọi
người, nhưng không phải là mọi người
đều “tìm thấy” Nước Trời bởi vì không
phải là mọi người đều đi tìm kiếm
Nước Trời. Tìm kiếm là điều kiện
thiết yếu để có thể gặp được
Nước Trời (x. Mt 10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều
này đúng ngay cho cả bình diện trí thức: khi nghiên
cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì chúng ta
sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào
cố ý tìm một điểm gì đó, chúng ta mới
thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy,
Nước Trời không phải là kết quả
đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước
Trời vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu chuẩn cho thấy người ta
đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi
có thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm
nhận khi nghe được sứ điệp về
Nước Trời: tôi có vui mừng không? Các giá trị
Nước Trời đã đi vào đời tôi, tôi có
cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất cả;
Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về
điều này chăng? Do đang còn mang não trạng
“thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều
gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do cứ
muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn
lên chương trình sống hoàn toàn theo ý mình, chúng ta có
thể đang còn vấp phải dữ kiện căn
bản này: một mình Thiên Chúa có thể lấp đầy
một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.
4. Cuộc sống con người ở trần gian còn
đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một
ngày nào đó, khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ
trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc
sống thật của người ta còn đang
được che giấu dưới một cái mặt
nạ đạo đức, nhưng đến ngày đó,
“mặt thật” của con người sẽ lộ rõ:
người ta chỉ hoàn toàn là “xấu” nếu tận
đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì
tìm kiếm một mình Thiên Chúa.
|