CHUYỆN
DỤ NGÔN
(Chúa
Nhật XVI TN, năm A)
Dụ
ngôn là một nét đặc trưng
của Kinh Thánh, bởi vì Chúa Giêsu
thường sử dụng dụ ngôn để
minh họa các giáo huấn của Ngài,
với các hình ảnh thực tế ngay
trong đời sống thường nhật nhưng
mang ý nghĩa cao siêu thuộc thượng
giới. Ngài ưa dùng dụ ngôn, có
lẽ vì loại văn này độc đáo.
Thật vậy, Kinh Thánh xác nhận: “Ngài
không nói gì với họ mà không
dùng dụ ngôn”
(Mt 13:34; Mc 4:34). Trong các Phúc Âm nhất
lãm có khoảng 35 dụ ngôn.![](%5BCN%2016%20TN-A%5D%20CHUY%E1%BB%86N%20D%E1%BB%A4%20NG%C3%94N_html_91272fb.jpg)
Thiết
tưởng cũng nên “mở ngoặc nhỏ”
để “nói nhỏ” rằng dụ
ngôn
cũng được gọi là ngụ
ngôn.
Tuy nhiên, hai danh từ này vừa màng ý
nghĩa tương đương vừa mang ý
nghĩa dị biệt.
Ngụ
ngôn (Anh: parable, fable; Pháp: parabole, fable) là
một câu chuyện ngắn, đơn giản,
bằng văn xuôi hoặc văn vần, mang
tính hoang đường, truyền thuyết,
hư cấu, “bịa” ra như chuyện
phiếm, nhưng vẫn chứa bài học có
giá trị về luân lý, mang tính
giáo dục, răn đời; các nhân
vật thường là vật hoặc con vật
được nhân cách hóa, các
nhân vật cũng có thể là người
hoặc thần linh.
Tương
tự, dụ ngôn (Anh: parable; Pháp: parabole)
cũng là một câu chuyện ngắn, đơn
giản, bằng văn xuôi, nhưng có điều
khác là mang tính bí ẩn, mang tính
tục ngữ, đặc biệt là mang chiều
kích tâm linh. Chúa Giêsu dùng thể
loại này, tức là Ngài dùng
thể loại “dụ ngôn” chứ
không dùng “ngụ ngôn”.
Trong
cuộc sống đời thường luôn có
những thái cực khác nhau, thậm chí
là đối nghịch. Một trong các
“cặp đôi” đó là Tốt
và Xấu, hoặc Thiện và Ác. Nói
theo tâm linh, đó là Thiên thần
và Quỷ sứ. Đại diện phe Thiện
là Tổng thần Micae (danh xưng Micae nghĩa
là “Người giống Thiên Chúa”
hoặc “Giống như Thiên Chúa”,
đó là Thiên thần đầu tiên
được Thiên Chúa tạo dựng, là
vị trưởng trong các Tổng thần, có
nhiệm vụ bảo vệ, khuyến khích,
về sức mạnh, sự thật và sự
chính trực), đối nghịch với Quỷ
vương Luxiphe – kẻ đại diện
phe Ác. Luxiphe từ thần lành biến
thành thần dữ, nguyên nhân là
do tính kiêu ngạo – mối tội đầu
thứ nhất (đối lại là đức
khiêm nhường – nền tảng mọi
nhân đức).
Điều
tốt và xấu cũng có nghĩa đen
và nghĩa bóng. Cái gì tốt thì
luôn luôn đẹp – gọi là tốt
đẹp, nhưng cái gì đẹp thì
chưa chắc là tốt. “Cái tốt”
và “cái xấu” xuất hiện
trong mỗi hành động, giữa hai thứ
là một lằn ranh rất mong manh. Vì
thế, phải luôn cảnh giác, đừng
bao giờ coi thường sự cẩn trọng
trong mỗi suy xét hoặc phán đoán
về người khác, cũng đừng bao
giờ ngừng chú ý và nghiêm khắc
với từng hành động của mình
– tư tưởng, lời nói và việc
làm.
Với
các hình thức và mức độ
khác nhau, cuộc chiến giữa “cái
tốt” và “cái xấu” không
bao giờ kết thúc, ở bất kỳ nơi
nào hoặc trong bất kỳ ai, việc của
chúng ta không phải là đứng ngó
và dùng niềm tin của mình để
phân định ai là “người tốt”
và ai là “kẻ xấu”, rồi
ngỡ ngàng khi niềm tin mơ hồ ấy
tan biến theo sự thay đổi của con người.
Tiền
nhân đã minh định: “Nhân
chi sơ tính bổn thiện”.
Ai sinh ra cũng đều là người tốt
– tốt đúng nghĩa, bởi vì
chúng ta được chính Thiên Chúa
tác tạo nên giống hình ảnh Ngài
theo Thánh Ý Ngài (St 1:26-27), thế nhưng
con người có “máu tự kiêu”
nên rất “chảnh”, sẵn sàng
nghe lời đường mật của ma quỷ
mà bất tuân Thiên Chúa, muốn
“đấu tranh” với Thiên Chúa,
chỉ vì ảo tưởng mà con người
đã sập bẫy của nó. Chính
cái tội “chảnh” đó đã
làm cho con người bị “biến
tướng”, trở nên xấu xa, không
còn “tính bổn thiện” như
trước nữa. Khốn thay!
Ma
quỷ rất tinh ranh, ngày nay chúng ta thấy
rõ nét ở bọn phiến quân IS.
Chúng thật ranh mãnh, không hiểu sao
mà chúng có thể dụ dỗ người
ta không ngại đánh bom tự sát,
nam giới đã đành, đáng ngạc
nhiên là phụ nữ cũng “cảm
tử”, thậm chí có phụ nữ
còn bế cả con nhỏ khi đánh bom
tự sát. Lời lẽ tuyên truyền của
ma quỷ và đồng bọn của chúng
thật đáng sợ. Chắc chắn cảnh
giác không bao giờ thừa, đúng
như Kinh Thánh cảnh báo: “Anh
em hãy sống tiết độ và tỉnh
thức, vì ma quỷ, thù địch của
anh em, như sư tử gầm thét, rảo
quanh tìm mồi cắn xé”
(1 Pr 5:8).
Thế
nhưng lại thật là diễm phúc cho
chúng ta mặc dù chúng ta quá đỗi
“ngu dại”, xấu xa và khốn nạn,
bởi vì Thiên Chúa vẫn một lòng
yêu thương các tội nhân chúng
ta trước sau như một, không suy giảm
chút nào. Sách Khôn Ngoan minh định:
“Thiên
Chúa chăm sóc mọi loài. Ngoài
Ngài ra, chẳng còn thần nào khác
để Ngài phải chứng tỏ rằng
các phán quyết của Ngài không
bất công”
(Kn 12:13).
Chúng
ta không thể nào hiểu nổi Thiên
Chúa nhưng chúng ta lại luôn ra vẻ
“tây đui” (tui đây), nhưng
Ngài chẳng chấp lách chi ráo trọi.
Thật tốt phúc cho chúng ta! Đúng
thế, Kinh Thánh giải thích thêm về
Thiên Chúa: “Chính
do sức mạnh của Chúa mà Chúa
hành động công minh, và vì Chúa
làm bá chủ vạn vật, nên Chúa
nương tay với muôn loài. Khi không
có ai tin rằng Chúa nắm trọn quyền
năng thì Ngài tỏ sức mạnh; còn
ai đã biết mà vẫn to gan thì
Ngài trị tội”
(Kn 12:16-17). Ông bà Nguyên Tổ đã
to gan và đã bị trị tội. Chúng
ta cũng “di truyền” cái loại “gen
nổi loạn” đó nên lúc nào
cũng chỉ muốn “vùng lên”.
Tội ở chỗ là biết mà vẫn
phạm, cố phạm chứ không phải là
ngu phạm, khôn phạm chứ không phải
là dại phạm. Thế mới đáng
tội. Quả là chúng ta to gan lắm, xấu
mà cứ tưởng mình tốt, dốt
mà mạo nhận là giỏi, ngu mà
vẫn chảnh. Ghê gớm thật đấy!
Tuy
nhiên, Thiên Chúa vẫn luôn giàu
lòng thương xót, “xử khoan hồng
vì Ngài làm chủ được sức
mạnh” và “lấy lượng từ
bi cao cả mà cai quản”, nhưng chớ
thấy vậy mà tưởng bở và
khinh suất, vì “Ngài có thể sử
dụng quyền năng bất cứ khi nào
Ngài muốn” (Kn 12:18). Đó bài
học Chúa dạy cho Ít-ra-en, và cũng
là bài học dạy cho mỗi chúng
ta hôm nay – những kẻ to gan, lớn mật,
cũng “chẳng vừa”, vẫn dám
coi Trời chỉ bằng… nắp bia mà
thôi! Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì
chúng ta có “máu giang hồ”,
ánh mắt mang hình “viên đạn
nguyên tử”, chẳng khác chi “dân
anh chị” thứ thiệt, có khác
chăng là chúng ta có thể giết
người mà không cần vũ khí.
Khi
Thiên Chúa ra tay trừng trị, không
phải là Ngài “trả đũa”
hoặc “hẹp hòi”, mà để
dạy chúng ta bài học này: “Người
công chính PHẢI có lòng nhân
ái”
(Kn 12:19a). Sự công chính rất quan trọng,
như tấm vé vào Nước Trời,
vì Chúa Giêsu nói: “Nếu
anh em KHÔNG ăn ở công chính hơn
các kinh sư và người Pha-ri-sêu,
thì sẽ CHẲNG được vào Nước
Trời”
(Mt 5:20). Và rồi Lòng Chúa Thương
Xót vẫn chan chứa trải quan bao thế
hệ: “Ngài
đã cho con cái niềm hy vọng tràn
trề là người có tội được
Ngài ban ơn sám hối”
(Kn 12:19b). Chắc chắn Thánh Phaolô đã
cảm nghiệm sâu sắc về Lòng Chúa
Thương Xót nên mới xác định:
“Ở
đâu tội lỗi đã lan tràn, ở
đó ân sủng càng chứa chan gấp
bội”
(Rm 5:20). Chắc chắn nhất là chính
Chúa Giêsu đã xác định với
Thánh nữ Faustina: “Lòng
Thương Xót của Ta lớn hơn cả
tội lỗi của con và toàn thế
giới”
(Nhật Ký số 1485).
Có
điều chắc chắn rằng, là phàm
nhân thì ai cũng có “gen tội
lỗi” ngay khi còn trong lòng mẹ (x.
Tv 51:7). Thật vậy, “không có ai nhân
lành cả, trừ một mình Thiên
Chúa” (Mc 10:18), và Kinh Thánh còn
minh định: “Chính
nhân có ngã bảy lần cũng đứng
lên được, còn kẻ ác cứ
lảo đảo hoài trong cảnh tai ương”
(Cn 24:16). Nói như vậy có nghĩa là
“người công chính mà còn
phạm tội mỗi ngày tới bảy lần”,
huống chi những người chưa công
chính – tức là còn đang ở
trong tình trạng tội lỗi, vẫn “dính
líu” tới “cái xấu”.
Bởi
vì chúng ta còn “máu xấu”,
chưa “lọc máu”, thế nên
chúng ta phải biết khiêm nhường
thật lòng mà “đấm ngực”
và cầu xin: “Lạy
Chúa, Ngài nhân hậu khoan hồng, giàu
tình thương với mọi kẻ kêu
xin; lạy Chúa, xin lắng nghe lời con cầu
khẩn, tiếng con van nài, xin để ý
lưu tâm”
(Tv 86:5-6). “Lỗi tại tôi và lỗi
tại tôi mọi đàng”, chứ
không phải là “lỗi tại tôi
và lỗi tại bạn một phần”.
Không có Thiên Chúa, chúng ta vô
cùng vô duyên và khốn nạn,
chẳng là chi ráo trọi. Do đó,
chúng ta luôn phải cần có Ngài,
bởi vì mỗi nhịp thở của chúng
ta chính là sự sống do Ngài thương
ban: “Chúa
ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh
hãi; lấy sinh khí lại, là chúng
tắt thở ngay, mà trở về cát
bụi”
(Tv 104:29).
Thánh
Vịnh gia rạch ròi xác định: “Lạy
Chúa, muôn dân chính tay Ngài tạo
dựng sẽ về phủ phục trước
Thánh Nhan, và tôn vinh danh Ngài. Vì
Ngài thật cao cả, và làm nên
những việc lạ lùng; chỉ một mình
Ngài là Thiên Chúa”
(Tv 86:9-10). Cứ nhìn thiên nhiên cũng
đủ xác minh. Thiên Chúa tốt lành
nên chỉ tạo điều TỐT, nếu có
điều XẤU là tại chúng ta, không
thể “nói trại” đi là
“thiên tai”, mà hãy can đảm
nói rằng các “sự cố” xảy
ra hoàn toàn là “nhân tai”.
Tại
sao Thiên Chúa vẫn im lặng và chưa
ra tay? Bởi vì Ngài vô cùng thương
xót chúng ta, Ngài kiên nhẫn chờ
đợi chúng ta trở về với Ngài
để chính chúng ta được hưởng
mọi phúc lợi, chứ chúng ta chẳng
thêm gì cho Ngài. Thời gian là sự
nhẫn nại Ngài dành cho chúng ta,
Ngài chỉ mong chúng ta sớm biết chân
thành thân thưa: “Phần
Ngài, muôn lạy Chúa, Ngài là
Thiên Chúa nhân hậu từ bi, Ngài
chậm giận, lại giàu tình thương
và lòng thành tín. Xin đoái
nhìn và xót thương con, ban sức
mạnh của Ngài và xuống ơn cứu
độ cho tôi tớ Ngài đây, con
của nữ tỳ Ngài”
(Tv 86:15-16).
Kể
cũng lạ, Thiên Chúa nhẫn nại
nhưng chúng ta lại “nóng tính”,
Ngài càng kiên trì thì chúng
ta lại càng nôn nóng. Chúng ta cầu
nguyện một thời gian chưa thấy “động
tĩnh” gì thì vội nản chí
sờn lòng, đôi khi còn trách
Chúa thế này thế nọ, giận lẫy
với Ngài. Quá “chảnh” luôn!
Thánh Phaolô nói: “Nếu
chúng ta trông mong điều mình chưa
thấy, đó là chúng ta bền chí
đợi chờ”
(Rm 8:25). Như thế mới là sống tích
cực về cả ba nhân đức đối
thần (Tin-Cậy-Mến), và đó cũng
là cách chúng ta tín thác vào
Lòng Chúa Thương Xót bằng cả
con người mình – chứ không chỉ
đọc như con vẹt hoặc tự động
như CD thu âm.
Và
Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên trì
trước sự bướng bỉnh của chúng
ta. Thánh Phaolô giải thích: “Hơn
nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ
chúng ta là những kẻ yếu hèn,
vì chúng ta không biết cầu nguyện
thế nào cho phải; nhưng chính Thần
Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta,
bằng những tiếng rên siết khôn
tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu
suốt tâm can, biết Thần Khí muốn
nói gì, vì Thần Khí cầu thay
nguyện giúp cho dân thánh theo đúng
ý Thiên Chúa”
(Rm 8:26-27). Rõ ràng Thiên Chúa luôn
rất quan tâm chăm sóc chúng ta, sự
quan phòng của Ngài ngoài sức tưởng
tượng của phàm nhân. Thế nên
Thánh Vịnh gia khuyên nhủ: “Hãy
ký thác đường đời cho Chúa,
tin tưởng vào Người, Người sẽ
ra tay”
(Tv 37:5). Chắc chắn rằng dù chúng ta
có xấu tới cỡ nào mà tín
thác cuộc đời cho Chúa hướng
dẫn thì chúng ta sẽ sớm nên
tốt. Xin mở ngoặc: Đừng quên gương
sám hối của tướng cướp
Dismas, kẻ đã bị đóng đinh
cùng lúc với Chúa Giêsu.
Chuyện
dụ ngôn luôn ly kỳ và hấp dẫn.
Tin Mừng hôm nay theo trình thuật của
Thánh sử Mátthêu, gồm “bộ
ba” dụ ngôn về Nước Trời:
[1] Dụ ngôn Cỏ Lùng (Mt 13:24-30, 36-43),
[2] Dụ ngôn Hạt Cải (Mt 13:31-32; tương
đương Mc 4:30-32; Lc 13:18-19), và [3] Dụ
ngôn Men Trong Bột (Mt 13:33; tương đương
Lc 13:20-21).
1.
Dụ ngôn Cỏ Lùng không chỉ nói
về Nước Trời mà còn là
một trong các dụ ngôn cho thấy Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa rất
bao la, vô hạn.
Trong
dụ ngôn này, Đức Giêsu ví
Nước Trời như một người kia
gieo giống
tốt
trong ruộng mình. Khi mọi người đang
ngủ, kẻ thù của ông đến
gieo thêm cỏ
lùng
vào giữa lúa, rồi đi mất. Khi
lúa mọc lên và trổ bông, cỏ
lùng cũng xuất hiện. Thấy vậy,
đầy tớ thắc mắc với chủ nhân
về việc gieo giống tốt trong ruộng, và
hỏi về sự xuất hiện của cỏ
lùng. Chủ nhân cho biết rằng chính
kẻ thù đã làm điều đó.
Đầy tớ đề nghị cho gom cỏ
lùng lại, nhưng chủ nhân liền
ngăn cản và giải thích: “Đừng,
sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm
bật luôn rễ lúa. Cứ để cả
hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt.
Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo
thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại,
bó thành bó mà đốt đi,
còn lúa thì hãy thu vào kho lẫm
cho tôi”.
Dụ
ngôn này cũng là một trong số ít
các dụ ngôn “khó hiểu” mà
chính các môn đệ đã xin Sư
Phụ Giêsu giải thích. Ngài phân
tích: “Kẻ
gieo hạt giống tốt là Con Người.
Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt,
đó là con cái Nước Trời.
Cỏ lùng là con cái Ác Thần.
Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là
ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận
thế. Thợ gặt là các thiên thần.
Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng
rồi lấy lửa đốt đi thế nào
thì đến ngày tận thế cũng
sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ
sai các thiên thần của Người tập
trung mọi kẻ làm gương mù gương
xấu và mọi kẻ làm điều
gian ác, mà tống ra khỏi Nước
của Người, rồi quăng chúng vào
lò lửa; ở đó, chúng sẽ
phải khóc lóc nghiến răng. Bấy
giờ người công chính sẽ chói
lọi như mặt trời, trong Nước của
Cha họ. Ai có tai thì nghe”.
Lời giải thích của Chúa Giêsu
rất rõ ràng, mạch lạc, không ai
lại không hiểu, nhưng vẫn có
những người không muốn hiểu. Vì
thế, Chúa Giêsu thường nói câu
này: “Ai
có tai thì nghe”.
Thiên
Chúa thương xót mọi người,
cả người tốt và cả người
xấu. Nhưng chúng ta lại ưa xì xầm
với nhau: “Sao
Chúa không cho lũ ác ôn bị nạn
cho nó trắng mắt ra nhỉ?”.
Chúng ta không thể hiểu thấu tình
yêu Thiên Chúa, bởi vì lòng
thương xót của Ngài quá lớn,
đến nỗi sai Con Một xuống trần
gian rồi “hiến dâng mạng sống
mình làm giá chuộc cho muôn
người” (Mt 20:28). Trong số “muôn
người” đó có cả người
xấu và người tốt – là
người này, là người kia, là
bạn, là tôi, là tất cả chúng
ta – nam, phụ, lão, ấu. Chẳng vậy
mà Chúa Giêsu đã từng dạy
chúng ta: “Hãy
yêu kẻ thù và cầu nguyện cho
những kẻ ngược đãi anh em”
(Mt 5:44), và “Hãy
chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và
cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em”
(Lc 6:28).
Câu
nói “Ai có tai thì nghe” [ai có
tai nghe thì (hãy) nghe] là mệnh đề
mà khi nghe, chúng ta cảm thấy có vẻ
bình thường, nhưng thật ra lại rất
thâm thúy, khiến chúng ta phải giật
mình, thấm thía và đau điếng.
Đó cũng là điều mà Chúa
nhấn mạnh nên đã được
nhắc tới vài lần (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt
13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; và Kh
13:9). Một câu rất đáng để
chúng ta phải suy nghĩ nhiều! Có
(lắng) NGHE thì mới (thấu) HIỂU, mà
hiểu rồi thì phải LÀM (thực
hành, thực thi, hành động), chứ
không thể nghe suông, chỉ nói mà
không làm, hoặc dạy người khác
làm mà mình không làm.
Thầy
nào trò nấy. Cha nào con nấy. Cây
nào trái nấy. Chắc chắn là như
vậy. Chúa Giêsu cảnh báo: “Anh
em hãy coi chừng các ngôn sứ giả,
họ đội lốt chiên mà đến
với anh em; nhưng bên trong, họ là sói
dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào
thì biết họ là ai. Ở bụi gai,
làm gì có nho mà hái? Trên
cây găng, làm gì có vả mà
bẻ? Nên hễ cây tốt thì sinh quả
tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.
Cây tốt không thể sinh quả xấu,
cũng như cây xấu không thể sinh quả
tốt. Cây nào không sinh quả tốt,
thì bị chặt đi và quăng vào
lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào
thì biết họ là ai”
(Mt 7:15-20; Lc 6:43-45). Với những câu đại
loại như thế này, người ta không
thích ai đề cập, “kẹt” lắm!
Hai
dụ ngôn tiếp theo cũng nói về
Nước Trời, Chúa Giêsu ví Nước
Trời như Hạt Cải và Nắm Men,
nhưng cả hai dụ ngôn này đều
ngắn gọn, đơn giản, nhưng vẫn
súc tích.
2.
Dụ ngôn Hạt Cải: “Nước
Trời cũng giống như chuyện hạt
cải
người nọ lấy gieo trong ruộng mình.
Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất
cả các hạt giống, nhưng khi lớn
lên thì lại là thứ lớn nhất;
nó trở thành cây, đến nỗi
chim trời tới làm tổ trên cành
được”.
3.
Dụ ngôn Men Trong Bột: “Nước
Trời cũng giống như chuyện nắm
men
bà kia lấy vùi vào ba thúng bột,
cho đến khi tất cả bột dậy men”.
Các
môn đệ không phiền Thầy Giêsu
giải thích về cả hai dụ ngôn
này, bởi vì không khó hiểu.
Với kinh nghiệm sống, chúng ta có thể
nhận thấy rằng càng ngày càng
có nhiều người tin vào Đức
Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa,
là Đấng Thiên Sai, là Đấng
Cứu Độ, chịu chết và phục
sinh. Mức độ không rầm rộ hoặc
đột biến, chỉ tiệm tiến, nhưng
chậm mà chắc. Hạt Cải đã
biến thành Cây Cải (cây cải ở
Israel to lớn chứ không như cây cải
ở Việt Nam), và Nắm Men đã làm
dậy men cả các Thúng Bột.
Các
tông đồ đã thắc mắc, và
chắc hẳn chúng ta cũng thế, rằng
tại sao Đức Giêsu dùng dụ ngôn
mà nói với đám đông và
nói gì với họ cũng dùng dụ
ngôn như vậy. Thánh sử Mát-thêu
cho biết rằng như thế là “để
ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ:
Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn,
công bố những điều được
giữ kín từ tạo thiên lập địa”
(Mt 13:35).
Ngày
xưa, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã
nói: “Hãy
dùng dụ ngôn mà nói với nòi
phản loạn”
(Ed 24:3). Vì thế mà chúng ta có
thể thấy chí lý khi Chúa Giêsu
bảo: “Ai
có tai thì nghe”.
Ai cũng có tai và có thể nghe, người
điếc (thể lý) cũng có cách
“nghe” của họ mà chúng ta
thường nói là “nghe ngóng”
(điếc hay ngóng, ngọng hay nói). Người
điếc tâm hồn thì không nghe được
điều tốt, đó là chứng nan y
bất trị. Nếu nghe thì nghe thế nào,
nghe làm gì? Đó là vấn đề
quan trọng cần phải lưu tâm!
Ở
đời có một điều thường
thấy: “Xấu
nói tốt, dốt nói chữ”.
Người có tâm
địa xấu
thì thường nói
về điều tốt
để che lấp mưu mô của mình,
muốn cho người khác thấy rằng họ
tốt lành; người
dốt
thì thường nói những lời
văn hoa,
bóng bẩy, hoặc lý sự “cùn”
để che đậy cái sự
trống rỗng
của mình, muốn cho người khác
thấy rằng họ là người có
cả “một bụng chữ”. Thùng
rỗng nào cũng kêu to, và vải
thưa không thể che mắt thánh. Thật
chí lý khi người ta phân tích:
“Đừng
cái lý với kẻ say, đừng bắt
tay với kẻ xấu, đừng chiến đấu
với kẻ liều, và đừng nói
nhiều với kẻ ngu”.
Không
ai dò thấu Thánh ý mầu nhiệm
và sự khôn ngoan của Thiên Chúa,
cũng chẳng ai hiểu nổi sự tốt lành
và lòng thương xót của Ngài.
Đúng như Kinh Thánh đã nói
về ơn khôn ngoan mà Thánh Vương
Sa-lô-môn được chính Thiên
Chúa trao ban: “Sự
hiểu biết của ngài bao trùm mặt
đất, dụ ngôn và ẩn ngữ của
ngài lan truyền khắp mọi nơi. Các
bài ca, châm ngôn và dụ ngôn
cũng như các lời giải thích của
ngài khiến mọi xứ phải trầm trồ
khen ngợi”
(Hc 47:15-17). Quả thật, Thiên Chúa là
vô cùng, bất biến, vĩnh hằng.
Thật vậy, Thánh Phaolô đã cho
chúng ta biết: “Cái
điên rồ của Thiên Chúa còn
hơn cái khôn ngoan của loài người,
và cái yếu đuối của Thiên
Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người”
(1 Cr 1:25).
Thiên
Chúa và phàm nhân là hai thái
cực: Thiên Chúa tốt lành tuyệt
đối, còn chúng ta xấu xa vô
cùng. Thực sự chúng ta rất cần
nhận thức rõ như vậy để mà
đừng có “chảnh” nữa, nhờ
vậy mà có thể nhận tấm visa vào
Nước Trời. Đối với Nước
Trời, Thánh Elizabeth Ann Seton (1774–1821) có
cách nói thú vị và thâm thúy:
“Cửa
Thiên Đàng rất thấp, chỉ những
người biết hạ mình mới có
thể vào được”.
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp con can đảm sống
thiện hảo theo tiêu chuẩn của Ngài.
Xin giúp con sống nhân hậu thực sự,
không chỉ yêu người chung chung, mà
thể hiện tình yêu đó bằng
cả tấm lòng, khối óc và đôi
tay, yêu hết mọi người, dù họ
tốt hay xấu, nhất là những người
nghèo hèn, khốn khổ, thấp cổ bé
miệng. Xin thêm sức cho người đau
khổ, xin ban ơn sám hối cho các tội
nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ con.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|