HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 14
THƯỜNG NIÊN A
Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt
11,25-30
ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM
NHƯỜNG NOI GƯƠNG CHÚA GIÊ-SU
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 11,25-30
(25)
Vào lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng
nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất. Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết
những điều này, nhưng lại mặc
khải cho những người bé mọn. (26)
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều
đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi
sự cho tôi. Và không ai biết rõ
người Con, trừ Chúa Cha, cũng như
không ai biết Chúa Cha, trừ người Con
và kẻ mà Người Con muốn mặc
khải cho. (28) Tất cả những ai đang vất
vả mang gánh nặng nề, hãy đến
cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi
dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của
tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có
lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm
hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi
bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái,
và gánh tôi nhẹ nhàng”.
2. Ý
CHÍNH:
Đức Giê-su ngợi khen
Chúa Cha vì đã tỏ mầu nhiệm
Nước Trời cho những người
bé mọn. Người hứa sẽ
mặc khải về Chúa Cha và ban sự
sống đời đời cho những ai tin
vào Người. Người kêu gọi dân Do
thái đang sống dưới ách Luật Mô-sê
và những kẻ đang chịu lầm than
vất vả hãy đến để
được ơn nâng đỡ.
Người khuyên họ mang lấy ách thập
giá của Người và học nhân
đức hiền lành và khiêm nhường
của Người. Nhờ đó, thập
giá sẽ nên nhẹ nhàng và đau khổ
sẽ thành êm ái cho họ. Tóm lại,
Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai
xuất hiện như là Con người, Con Thiên
Chúa, là Vua và là Đấng mặc
khải Nước Trời cho những kẻ
bé mọn.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 25-26: + Lạy Cha (Áp-ba): là một tiếng kêu thân
thương của đứa con với cha
giống như “Bố ơi!” của người
Việt Nam. Đây là một kiểu nói mới
lạ độc đáo của Đức Giê-su,
mà trước đó không ai dám thưa
với Đức Chúa như vậy. + Con
ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu:
Đức Giê-su cảm tạ Chúa Cha vì đang
khi những kẻ tự cho mình là khôn ngoan
không chấp nhận Tin mừng Nước
Trời, thì những người nghèo
hèn lại vui vẻ đón nhận. +
Đó là điều đẹp ý Cha:
Đức Giê-su nhận ra thánh ý của Chúa Cha
phù hợp với lời tuyên sấm của I-sai-a: trong
Triều đại của Đấng Thiên Sai
người nghèo sẽ được nghe rao
giảng Tin Mừng (x. Is 61,1-2).
- C 27-28:
+ Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi:
Câu này gợi lại lời tuyên sấm của
Đa-ni-en về Đấng Thiên Sai mang danh hiệu Con
Người, Ngài được Đấng Cao
Niên là Thiên Chúa ban cho mọi sự (x. Đn
7,13-14). + Không ai biết rõ người Con trừ
Chúa Cha…: Chỉ Chúa Con mới biết
rõ về Chúa Cha và mặc khải cho nhân
loại để họ tin theo và được
ơn cứu độ là sự sống
đời đời (x. Ga 17,3). + Tất cả
những ai đang vất vả mang gánh
nặng nề: Những người
bé nhỏ khiêm hạ được Đức
Giê-su mặc khải cho là những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề. Đó
là dân chúng Do thái sống dưới
ách Lề Luật và phải tuân giữ
nhiều tập tục phức tạp mà các
kinh sư và Pha-ri-sêu đã đặt thêm ra (x.
Mt 23,4). Đây cũng hiểu là hết những ai
đang chịu nhiều thiệt thòi về vật
chất và đau khổ về tâm hồn. +
Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi
bồi dưỡng: Đức Giê-su
thương xót hết mọi kẻ đau khổ
và mang vác gánh nặng. Người không
hứa sẽ cất cho họ khỏi gánh nặng,
nhưng sẽ ban thêm sức mạnh tinh thần
giúp họ can đảm chịu đựng đau
khổ để vượt qua và lập công
đền tội mình.
- C 29-30:
+ Hãy mang lấy ách
của tôi: Ách hay
gánh nặng của Đức Giê-su là
đạo lý Tin Mừng. Đạo lý ấy
được tóm lại trong ba điều:
Một là phải tin vào Đức Giê-su và
trở nên môn đệ của Người. Hai
là phải sống khiêm hạ bé nhỏ
trước tôn nhan Thiên Chúa. Ba là phải cư
xử hiền hòa với tha nhân noi gương Đức
Giê-su. + Vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường: Sự hiền hậu của
Đức Giê-su luôn đi với khiêm
nhường tự hạ (x. Mt 11,29; Lc 14,11). + Tâm
hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi
bồi dưỡng: Đức Giê-su
hứa sẽ ban bình an nội tâm cho những ai
mở lòng đón nhận tình yêu của
Người, và chấp nhận theo con đường
“qua đau khổ vào trong vinh quang”. + Vì ách tôi êm
ái, và gánh tôi nhẹ nhàng: Tuy
Đức Giê-su đòi hỏi nhiều hơn
và triệt để hơn các ráp-bi Do
thái (x Mt 10,37-38), nhưng Người chỉ
mời gọi và chờ đợi
sự tự nguyện đáp lại, trái
với các đầu mục Do thái thường "bó
những gánh nặng mà chất lên vai
người ta, còn chính họ thì không
buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4).
4. CÂU
HỎI: 1) “Abba” nghĩa là gì ? Lối xưng hô
này cho thấy quan hệ giữa Đức
Giê-su với Thiên Chúa ra sao ? 2) Đức Giê-su
ngợi khen Chúa Cha về điều gì ? 3)
Lời Đức Giê-su cho biết Người
được Thiên Chúa ban cho mọi sự
đã được ngôn sứ nào
đề cập đến ? 4) Đức Giê-su kêu
gọi những kẻ đang vất vả mang
gánh nặng đến với Người.
Họ là những ai và Người hứa
sẽ ban điều gì cho họ ? 5) Ách của
Đức Giê-su nói đây ám chỉ
điều gì và được tóm lại
như thế nào ? 6) Sự hiền hậu của
Đức Giê-su luôn đi kèm với nhân
đức nào ? 7) Đức Giê-su đã nêu
gương khiêm nhường hiền hậu ra sao ? 8)
Đức Giê-su hứa ban điều gì cho
những kẻ sống khiêm hạ hiền hòa ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.
LỜI CHÚA: “Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi
dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi,
và hãy học cùng tôi, vì tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh
em sẽ được nghỉ ngơi bồi
dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh
tôi nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) SẴN
SÀNG NHẪN NHỊN KẺ THÙ VÌ VIỆC NƯỚC:
LẠN
TƯƠNG NHƯ được phong làm tướng
quốc nước Triệu. LIÊM PHA cậy mình có nhiều
công hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên
dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm
hễ gặp mặt Tương Như là sẽ giết.
Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt...
Một hôm Tương Như có việc phải ra ngoài,
gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha
từ xa đi tới, liền sai mấy người đánh
xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha
đi qua rồi mới ra đường. Bọn xa nhân của
Tương Như thấy thế rất căm
giận thay cho chủ và họp nhau lại chất
vấn Tương Như rằng:
-
Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để
hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên
mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan
nhất phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên
ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp nên tránh mặt ở
triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài
đường nữa ! Sao ngài lại tỏ ra nhát sợ ông
ta quá như vậy ? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu
hổ, nên xin phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.
Tương
Như liền nói :
-
Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước
Tần không ?
Bọn
xa nhân đáp :
-
Thưa không.
Tương
Như lại nói :
-
Trước cái oai của vua nước Tần, thiên
hạ nào ai dám ra mặt chống, mà Tương Như này
dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước
Tần, lại làm nhục cả quần thần của
vua Tần nữa. Tương Như ta dẫu hèn,
há lại sợ một Liêm tướng quân hay sao ? Nhưng
ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không
dám tiến đánh nước Triệu chúng ta là vì e sợ
có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau,
thề không sống chung với nhau. Nếu nước Tần
nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân
sang đánh nước Triệu ta thì sao ? Ta sở dĩ
chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì lấy việc
nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn
xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà
rằng :
-
Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi
đại chí của tướng công.
Về
phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng
xử của Tương Như thì cả thẹn mà
rằng : ”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa
lắm”. Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với
Tương Như, qùi mọp mà rằng: ”Tôi tính tình thô
bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ qua, tự
nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !”. Tương Như đến
đỡ dậy, và sau đó cả hai kết làm bạn thân
thiết sống chết có nhau.
(Cái
DŨNG của thánh nhân- Nguyễn duy Cần)
2) TÂM
HỒN BÌNH AN NHỜ TIN VÀO CHÚA:
TOM
là một tân tòng người da đen. Anh
có lòng tin Chúa và siêng năng tham dự
thánh lễ mỗi ngày. Nhưng anh bạn thân
của anh tên là GION thì lại không tin Chúa. Khi gặp
Tom, anh ta thường nói lời khích bác
đức tin của Tom và coi Tom là một
kẻ mê tín. Một hôm Tom đang vác một bao
khoai mì khá nặng từ cánh
đồng trở về nhà, thì gặp
Gion đang ngồi chờ bên vệ đường.
Thấy Tom vác nặng mồ hôi chảy ra nhễ
nhãi, Gion liền lên tiếng diễu cợt:
“Này Tom, anh tin Chúa mà sao Chúa lại để
anh vất vả quá như thế ?” Tom không trả
lời và tiếp tục bước đi.
Được thể, Gion lẽo đẽo theo sau
và tiếp tục nói những lời
khích bác về đạo. Đi
được một quãng, Tom đã cố
ý buông tay cho bao khoai sau lưng anh rơi xuống đất.
Sau đó anh quay lại nhặt lên và nói
với Gion: “Tôi cũng xin hỏi anh: "Làm sao tôi
biết được bao khoai sau lưng mình
bị rơi, khi mắt tôi không thấy nó rơi
?”. Gion liền đáp: “Đương nhiên là anh
phải biết nó rơi rồi, vì anh cảm thấy
gánh nặng trên vai anh biến mất ?” Bấy
giờ Tom mới giải thích cho Gion hiểu
lý do tại sao mình theo đạo như sau: “Tôi
đồng ý với anh là bao khoai tôi đang
vác mà bị rơi xuống thì đương
nhiên tôi phải biết, vì tôi thấy gánh
nặng trên vai tôi đột nhiên biến mất và
tôi cảm thấy nhẹ mình. Về đức tin
cũng vậy: Trước đây, tôi luôn cảm
thấy buồn rầu lo lắng về những
tội lỗi trong quá khứ, và không lúc
nào tâm hồn được bình an. Nhưng
từ ngày theo đạo, tôi đã gặp
được Chúa Giê-su. Mỗi lần tham
dự thánh lễ, tôi được nghe
Lời Chúa an ủi và lời giảng
của vị linh mục giúp tôi hiểu thêm về
lòng thương xót của Chúa, về ý
nghĩa những đau khổ tôi gặp phải
và về giá trị công việc lao động tôi
đang làm… Khi từ nhà thờ ra về, tôi
cảm thấy bao nhiêu gánh nặng lo âu phiền
muộn đều biến mất. Hiện nay tôi cảm
thấy tâm hồn mình thật bình an hạnh phúc.
Mặc dù vẫn phải làm việc để
kiếm sống, vẫn gặp phải những
điều rủi ro tai nạn trái với ý
muốn, nhưng tôi luôn an tâm và sẵn sàng
chấp nhận chúng giống như tôi đang vác
cây thập giá của mình mà theo chân Chúa
vậy. Chính đức tin đã giúp tôi
nhận ra Chúa Giê-su đang sống trong tôi và tôi
cảm thấy rất an tâm vì có Chúa đồng
hành, cùng chia sẻ vui buồn với tôi.
Đó chính là lý do tại sao tôi theo
đạo và tôi quyết trung thành theo Chúa
đến cùng”.
Tom
đã cảm nghiệm được lời
Đức Giê-su hôm nay: “Tất cả những ai
đang vất vả và mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi
bồi dưỡng… Và tâm hồn anh em sẽ
được bình an” (Mt 11,28-29).
3) GIÓ BÃO
VÀ MẶT TRỜI - AI MẠNH HƠN AI ? :
Gió
bão và Mặt trời đang tranh cãi nhau về sức
mạnh vô địch của mình. Lúc đó có một
người hành khất mặc một chiếc áo khoác cũ
rách đang đi trên đường. Mặt Trời
liền nói : “Chúng ta đã cãi nhau nhiều rồi mà không
có người thắng. Bây giờ mỗi người hãy
chứng tỏ sức mạnh bằng hành động: “Ai
lột được chiếc áo khoác của người
hành khất đang đi dưới đường kia thì
mới là kẻ mạnh nhất.” Nghe vậy, gió bão
liền đồng ý và lập tức ra tay trước.
Gió
bão bắt đầu cho đổ mưa và làm thành một cơn
cuồng phong thổi nước mưa ào ào tạt vào
người của gã hành khất kia. Có điều lạ
là gió bão càng thổi mạnh bao nhiêu thì gã hành khất lại
càng ôm chặt chiếc áo khoác sát vào người. Gió bão
tức giận tăng thêm cường độ xô gã hành
khất té ngã xuống đường. Nhưng khi thấy
chiếc áo khoác sắp bị thổi bay khỏi
người thì gã hành khất liền nằm đè lên
chiếc áo, quyết không cho nó rời khỏi mình. Sau khi làm
đủ cách trong một thời gian dài, gió bão bị thấm
mệt nên đành chịu thua, nhường chỗ cho mặt
trời ra tay.
Mặt
trời liền chiếu xuống đường những
tia nắng ấm áp khiến gã hành khất đang nằm
trên đường cảm thấy dễ chịu và bắt
đầu ngồi lên. Hắn ta mới lỏng chiếc áo
khoác phanh ngực ra đón ánh nắng mặt trời. Khi ánh
nắng chứa chan làm cho gã cảm thấy nóng bức và mồ
hôi bắt đầu xuất ra khiến gã phải cởi
áo khoác ra và chạy tới một gốc đa gần
đó trú nóng. Gã ta trải chiếc áo khoác phơi trên bãi cỏ
cho mau khô. Thế là anh mặt trời đã chiến
thắng vẻ vang mà không cần vất vả như anh
gió bão trước đó.
Câu
chuyện cho thấy sự hiền hòa dịu dàng kèm theo
sự khôn ngoan sẽ có sức mạnh chinh phục lòng
người hơn là thái độ hung dữ dùng bạo
lực để trấn áp tha nhân.
4)
SỐ PHẬN CỦA KẺ KIÊU NGẠO THÔNG MINH NHẤT
THẾ GIỚI :
"Có
một máy bay nhỏ chở hành khách đang bay ở
độ cao trung bình và với vận tốc vừa
phải. Hành khách trên máy bay gồm một vị giáo sĩ,
một hướng đạo sinh, một giám đốc
sản xuất điện toán. Đang bay trên bầu
trời thì bỗng nhiên động cơ của máy bay không
hoạt động nữa. Gió rít mạnh làm chiếc máy
bay rơi nhanh. Ba chiếc dù được đưa ra,
nhưng trên máy bay có tất cả bốn người. Làm
sao đây?
Viên
phi công khóc và nói: "Tôi phải có một chiếc dù, vì tôi
có vợ và ba đứa con thơ." Nói đoạn, viên
phi công nhanh tay chộp lấy một cái dù và nhảy
vội ra khỏi máy bay. Ba người còn lại nhìn nhau.
Ông Giám độc điện toán kêu lên: "Ồ, chắc
là tôi phải cần một cái dù. Tôi là người thông
minh nhất thế giới và thế giới đang
cần tôi". Nói chưa dứt lời, ông nhanh tay
luồn dây vào vai rồi vội nhảy ra ngoài.
Vị
giáo sĩ quay sang nói với người hướng
đạo sinh: "Này con, con hãy lấy chiếc dù cuối
cùng và nhảy ra đi. Cha đã già rồi, cha sẵn sàng
để đi gặp Chúa. Con còn trẻ, tương lai
huy hoàng đang chờ đợi con. Con không thể
chết được". Nhưng người
hướng đạo sinh mỉm cười nói: "Cha
già đáng kính và dễ thương của con ơi. Cha hãy
yên tâm. Vẫn còn đủ dù hai chiếc dù cho hai cha con
mình. Ông giám đốc điện toán cho mình là người
thông minh nhất thế giới vừa nhảy ra khỏi
máy bay với chiếc ba lô của con mà ông ta tưởng
đó là chiếc dù".
Hãy
tự khiêm tự hạ trước mặt Thiên Chúa
để chính Ngài sẽ hành động trên chúng ta.
Hạnh phúc cho những ai biết nép mình bên Chúa như
đứa con thơ trong tay mẹ hiền của mình.
5)
GƯƠNG HIỀN LÀNH KHIÊM NHƯỜNG CỦA THÁNH GIÁO
HOÀNG GIO-AN 23 :
Khi được phong lên làm Tổng
giám mục, thì đức cha Roncalli đang là Khâm sứ Toà
Thánh kiêm Đại diện Tông tòa quản trị các giáo
phận ở Bungari và Thổ. Công việc của
ngài rất khó khăn, vì phải coi sóc một vùng
đất rộng lớn, đang sôi động về
mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo :
Giữa đạo Công giáo với các đạo Tin lành,
Chính thống, Hồi giáo ;
Giữa các linh mục triều với các tu sĩ.
Trong lúc thi hành công tác mục vụ, đức Tổng giám
mục Roncalli đã nhận được một bức
thư nặng lời chê trách ngài về mọi mặt, do
một linh mục bất mãn với ngài
viết. Khi đọc xong, đức cha Roncalli
không nói một lời, lòng vẫn tha thiết yêu thương
vị linh mục ấy.
Sau
khi được thăng chức sứ thần
Toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và
cuối cùng đắc cử lên làm Giáo hoàng với danh
hiệu Gioan 23 vào năm 1958, linh mục viết thư
chỉ trích ngài năm nào vẫn đang còn
sống. Ông cùng với đoàn giáo dân sang Rôma xin
được vào yết kiến Đức Giáo hoàng. Linh
mục ấy đã thuật lại cuộc tiếp
kiến riêng tư với Đức Giáo hoàng :
“Trong lúc
đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu
óc tôi cứ nghĩ tới bức thư biểu lộ
sự bất mãn năm xưa mà lòng vô cùng hối hận.
Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm trôi qua
rồi, nên giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha
sẽ không còn nhớ gì... Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp
chuyện thân mật, Đức Thánh Cha với lấy
cuốn Kinh thánh và lôi ra trước mặt tôi bức
thư ấy. Đang khi tôi lúng túng, Đức Thánh Cha
đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: ”Con
đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận ghét
gì con đâu mà trái lại còn phải cám ơn con nữa. Vì
cha cũng chỉ là người, cũng có những yếu
đuối sai lỗi, nên khi nhận được thư
của con, cha đã để vào trong cuốn Thánh kinh
đọc hằng ngày, để mỗi tối cha
đều nhìn vào bức thư đó để xét mình,
hầu dễ dàng tu sứa những khuyết điểm
sai lỗi tồn tại, và quyết tâm xa tránh những
lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương
lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ
đến con và cầu nguyện cho con”.
3. SUY
NIỆM:
1)
THẾ NÀO LÀ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG ?:
-
Hiền hậu hay hiền lành là thái độ của một
người tốt lành, giàu lòng từ bi nhân ái, có lòng thương
xót và thích làm điều tốt cho kẻ khác. Hiền
hậu theo Kinh Thánh còn có nghĩa là thái độ hiền dịu,
không cứng cỏi… Như vậy sự hiền
hậu vừa có trong lòng lại vừa phát xuất ra bên
ngoài: Trong lòng thì từ bi, khoan dung, độ lượng,
cảm thông, còn bên ngoài thì nhẹ nhàng, từ tốn
nhỏ nhẹ, không thô bạo, không gây thù chuốc oán
với ai...
- Trong
đời sống thường ngày, những người
có quyền thường tự cao tự đại, không
muốn ai làm trái ý của mình, lại thường nóng tính
biểu lộ qua nét mặt cau có, hay la mắng
người dưới làm trái ý mình, có khi còn “giận cá
chém thớt” nữa.
-
Khiêm nhường là thái độ nhún nhường không
thích khoe khoang thành tích, sẵn sàng hạ mình một
chút. Căn bản của khiêm nhường là tôn
trọng sự thật về mình: nhận thức đúng mình
là người xấu tốt như thế nào để
không muốn mình nổi trội hơn người khác.
Giả như người khác có coi thường mình thì cũng
không tức giận và để bụng trả thù. Nhờ
“biết mình biết người” như vậy nên
người khiêm nhường sẽ luôn thành công trong
mọi việc., sẽ không buồn phiền chán nản khi
sự thể xảy ra không như ý của mình.
Người khiêm nhường dễ gây được
thiện cảm với người khác và nhận
được sự hợp tác của nhiều
người.
2) HÃY
HỌC VỚI TÔI SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM
NHƯỜNG TRONG LÒNG:
-
Đức Giê-su mời gọi chúng ta hãy học nơi
Người về “lòng hiền hậu và khiêm
nhường”, để tâm hồn chúng ta có sự
bình an thư thái. Cần loại bỏ thái
độ tự mãn về sự khôn ngoan thông
thái của mình, để tập suy nghĩ
đơn sơ trung thực như trẻ thơ.
Bấy giờ chúng ta sẽ được Chúa
mặc khải những mầu nhiệm của
Thiên Chúa (x. Mt 11,25-27). Ngoài ra, thánh Au-gút-ti-nô cũng
nói: “Ở đâu có khiêm nhường,
ở đó có bác ái”.
-
Văn hào Nga TÔN-TOI (Tolstoi) đã kể một câu
chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là
nguyên nhân của niềm vui và hạnh phúc như
sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ
sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn
bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn
rầu vậy?” Sóc liền trả lời
rằng: “Ông sói buồn rầu vì trong lòng ông chứa
đầy sự độc ác. Chính sự
độc ác ấy đã bóp nghẹt trái
tim ông, không cho ông được an bình hạnh
phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui
vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm
hại ai cả”.
-
Một câu chuyện khác về một con nhái bén
kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bén kiêu căng lên
tiếng thách đấu với một con bò
mộng. Nhái ta cố uống nhiều nước
để phình bụng ra to hơn con bò. Nhưng to
đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu
căng kia sau một hồi cố gắng đã bị nổ
bụng và chết thảm.
Câu
chuyện nhái bén này dạy chúng ta bài học như
sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị
té đau”, đừng “xưng hùng xưng
bá” khi không có thực tài như
người ta thường nói: “Có tài mà cậy chi tài.
Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Đàng
khác dù có thực tài đi nữa nhưng phải ý thức
về giới hạn của mình như người xưa
dạy: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một
người tài giỏi chắc cũng sẽ có
người tài giỏi hơn đánh bại mình).
3)
ỨNG XỬ HIỀN HẬU VÀ KHIÊM NHƯỜNG GIỮA
ĐỜI THƯỜNG: Trong
cuộc sống, mỗi tín hữu chúng ta hãy quyết tâm
ứng xử hiền lành khiêm nhường cụ thể
như sau:
a-
Nhẫn nhịn chịu đựng: Kềm chế cơn giận khi bị
kẻ khác khinh thường chơi xấu mình, noi
gương Đức Giê-su đã không trừng phạt dân
làng Sa-ma-ri khi họ không tiếp đón Người và các
môn đệ vào ở trọ trong làng của họ. Hai môn
đệ Gia-cô-bê và Gio-an đã tức giận yêu cầu
Đức Giê-su: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng
con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng
nó không? ” Nhưng Người quay lại quở mắng các
ông: “Anh em không biết anh em thuộc loại thần khí nào.
Vì Con Người không đến để làm cho
người ta mất mạng, nhưng là để cứu mạng”. Rồi thầy
trò đi sang làng khác (x. Lc 9,53-56).
b- Không
khoa trương công đức trước mặt
người đời để tìm tiếng khen (x. Mt 6,1-4). Tránh tình trạng “thùng
rỗng kêu to”; “Làm láo báo cáo hay”. Bệnh thành tích làm cho
người ta dễ che đậy cái xấu và gian dối
phóng đại điều tốt lên để
được người khác khen thưởng.
c-
Sẵn sàng tha thứ vô điều kiện: Đức Giê-su đã dạy:
“Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy,
anh em mới được trở nên con cái của Cha anh
em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho
mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ
xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống
trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x.
Mt 5,43-45). Trong kinh Lạy Cha Người cũng dạy
chúng ta cầu nguyện: “Xin tha tội cho chúng con, như
chúng con cũng tha cho những người có lỗi với
chúng con” (Mt 6,12).
d-
Cần sớm hòa giải với tha nhân trước khi dâng
của lễ: “Vậy
nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn
thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có
chuyện bất bình với anh, thì hãy để của
lễ lài đó trước bàn thờ, đi làm hòa với
người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng
lễ của mình” (Mt 5,23-24).
e-
Sắn sàng phục vụ hơn là được
phục vụ (x. Mt 20,28):
Đức Giê-su đã nêu gương khiêm hạ bằng
việc rửa chân môn đệ trước khi dạy các
ông bài học khiêm nhường (x. Ga 13,14).
g- Yêu
kẻ thù và làm ơn cho những kẻ thù ghét bách
hại mình (x. Mt 5,39-42):
Trên thập giá, Đức Giê-su nêu gương hiền lành
khiêm nhường khi im lặng chịu đựng
sự sỉ nhục và cầu xin Chúa Cha tha cho
những kẻ hành hạ mình (x. Lc 23,34)…
4) PHÚC
THAY AI XÂY DỰNG HÒA BÌNH: Trong
bài giảng “Tám mối phúc thật” , Đức Giê-su đã
khẳng định: Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ
được Đất Hứa làm gia nghiệp”. ”Phúc thay
ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi
là con Thiên Chúa” (Mt 5,4.10). Sự hiền lành sẽ
làm cho chúng ta được vào Nước Trời của
Đức Giê-su và nếu biết xây dựng hòa bình trong môi
trường sống và làm việc của mình, chúng ta
sẽ xứng đáng được gọi là con Thiên Chúa.
Tuy nhiên, sự hiền lành
nơi Đức Giê-su không phải là nhu
nhược thụ động, không đồng
nghĩa với bất
nhất ba phải… nhưng luôn biết ăn ở công minh
chính trực, từ bi nhân ái, thể hiện qua thái
độ và cách ứng xử như sau:
a- Tránh
xét đoán ý trái cho kẻ khác: Luôn tỏ lòng nhân từ với các tội nhân noi
gương Đức Giê-su đã nói với người phụ
nữ phạm tội ngoại tình: “Tôi cũng
vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ
về đi, và từ nay đừng phạm tội
nữa !” (Ga 8,11b).
b-
Hiền lành nhưng cương quyết: Không thỏa hiệp với cái xấu
như Đức Giê-su đã trách ông Phê-rô khi ông can trách
Người đừng chấp nhận con
đường “qua đau khổ vào vinh quang” theo ý Chúa Cha
như sau: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản
lối Thầy, vì tư tưởng của anh không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của
loài người” (Mt 16,23). Đức Giê-su cũng có lần
quát mắng ma quỷ cám dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi ! Vì
đã có lời chép: “Ngươi phải bái lạy
Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải
thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,10).
c-
Nặng lời khiển trách bọn đạo
đức giả:
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và
người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi khóa cửa
Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Các ngươi
đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi
cũng không để cho họ vào” … “ Đồ mãng xà, nòi
rắn độc kia ! Các ngươi trốn đâu cho khỏi
hình phạt hỏa ngục ?” (Mt 23,13.33).
d- Sẵn
sàng dùng biện pháp mạnh khi cần: Người đã bện dây thừng
làm roi để xua đuổi tất cả bọn con buôn
ra khỏi Đền Thờ, lật đổ bàn của
những người đổi bạc và xô ghế của
những kẻ bán bồ câu. Rồi Người bảo
họ: “Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ
được gọi là nhà cầu nguyện, thế mà các
ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn
cướp“ (Mt 21,12-13).
e- Lý
phải nhân tâm phục: Đức
Giê-su đã hạch kẻ
đã vả mặt Người rằng: “Nếu tôi
nói sai, hãy chứng minh xem sai chỗ nào. Còn
nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi ?”
(Ga 18,22-24).
TÓM LẠI: Tất cả những
điều tốt đẹp Đức Giê-su làm và dạy
nói trên đã được thánh Phan-xi-cô tóm lại trong KINH
HÒA BÌNH. Nếu mỗi tín hữu chúng ta biết năng
đọc và áp dụng theo các nguyên tắc ứng xử
này thì chúng ta sẽ nên giống Đức Giê-su và sẽ
tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng
của Hội Thánh.
4.
THẢO LUẬN:
1) Phân biêt sự hiền
lành giống và khác với sự nhu
nhược và ba phải ra sao ?
2) Có người
nghĩ rằng: không thể áp dụng lời
Đức Giê-su dạy: “Đừng chống
cự người ác” (Mt 5,39), để tránh
cho kẻ ác “được đàng chân, lân
đàng đầu”. Bạn có đồng ý
với quan điểm ấy không ? Tại sao ?
3) Bạn cần làm
gì cụ thể để nên hiền lành và
khiêm nhường noi gương Đức Giê-su ?
5.
NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA. Xin cho chúng con quyết tâm học
tập nhân đức hiền lành và khiêm
nhường trong lòng để nên giống Chúa noi
gương Mẹ Ma-ri-a khi xưa. Xin cho chúng con
trước khi nhắm mắt từ
giã cuộc đời, có thể nói
được như mục sư Mác-tin Lu-thơ
Kinh (Martin Luther Kinh) rằng: “Tôi rất hãnh diện
nếu ngày tôi qua đời, ai đó sẽ
kể lại rằng: Mác-tin Lu-thơ Kinh là
người đã cố gắng sống
vì yêu thương. Ngày đó tôi mong muốn
các bạn sẽ nói rằng tôi đã
sống cho công lý, tôi đã dấn thân để
đem lại cơm bánh cho những
người đói khổ, tôi đã luôn cho
kẻ đói rách được ăn
mặc. Tôi mong rằng ngày đó các
bạn sẽ nói rằng tôi đã dấn thân
đến thăm những người tù
tội, và yêu thương phục vụ hết
mọi người như lời Chúa dạy…
Còn tất cả những thứ khác,
như giàu có, danh dự, giải No-ben hòa
bình … đều không đáng kể”.
- LẠY CHÚA. Chúng con
đã được Chúa tạo dựng
nên giống hình ảnh Chúa. Chúa đã
phú ban cho chúng con có tình yêu thương giống
như “Thiên Chúa là Tình Thương”. Xin cho chúng con luôn
tìm kiếm Chúa là nguồn hạnh phúc
thật sự của đời con. Xin cho con biết
ăn ở khiêm nhường và phục vụ
Chúa trong những người cô đơn
nghèo khổ và bệnh tật yếu đau
đang sống bên chúng con”.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH -
HHTM
|