Đón
tiếp
Một
số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi
thời và không còn cần thiết nữa. Có người
cho rằng giảng huấn của Tin Mừng là khùng
điên. Trong số báo The World xuất bản tháng 11 năm
1989, Ted Turner chủ nhân của cơ quan truyền thông
Turner Broadcasting đã tuyên bố: “Kitô giáo là một tôn giáo
dành cho những kẻ thua cuộc”. Ngoài câu nói này, ông còn vung
vít nhiều điều khác nữa, nhưng câu này gồm
tóm điểm chính yếu những gì ông ta đã phát
biểu.
Trước
mặt người đời những người Kitô
hữu là những người khùng điên, dại khờ,
thua lỗ. Nhưng điều người đời nghĩ
rằng điên dại thì thật ra lại là sự khôn
ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Đây là
điều thánh Phaolô đã nói: “Thật thế, lời rao
giảng về thập giá là một sự điên rồ
đối với những kẻ đang trên đà hư
mất, nhưng đối với chúng ta là những
người được cứu độ, thì đó
lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.
Bài
Phúc âm hôm nay, là phần kết luận của chương
10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền
Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu
ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao
giảng Tin Mừng. Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa
Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành
mục vụ trong cánh đồng truyền giáo.
Người ta chỉ thị cho họ phải chấp
nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất
vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ
hành hạ và bị giết chết. Đứng
trước viễn tượng đó Người đã
khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự
trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy
diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không
được tôn trọng trước mặt
người đời, nhưng trước mặt Thiên
Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng
đối với các tông đồ.
“Kẻ
nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và ai
đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã
sai Thầy”. Chúng ta có bao giờ thực sự nghĩ
rằng khi một người nào đó đón tiếp chúng
ta là họ đón tiếp Chúa Giêsu Kitô không?
Theo
những cuộc thăm dò cho biết hai trong ba
người có quan niệm rất thấp về bản
thân mình. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự tự
đánh giá thấp về chính mình. Thiếu lòng tự
trọng thường là nguyên do của nhiều vấn
đề xã hội và tâm lý. Người có lòng tự
trọng cao thường lành mạnh hơn là những
người thiếu lòng tự trọng. Họ sống lâu
và ít có tai nạn hơn. Họ tránh được
những thái độ khiêm nhã. Họ không cần phải
dùng đến thuốc kích thích hay bia rượu, và
cũng không cần phải khoe khoang hay làm những sự
liều lĩnh ngu xuẩn để gây sự chú ý.
Những người có lòng tự trọng cao thường
thành công và kiếm được những việc làm
lương bổng cao hơn. Tại sao? Những nhà tâm lý
học trả lời rằng vì họ có niềm hy
vọng và tinh thần lạc quan. Đây chính là yếu
tố tạo nên thành công.
Martin
Seligman, giáo sư tâm lý học của trường
đại học University of Pennsylvania đã làm cuộc
thăm dò các nhân viên của một hãng bán bảo hiểm
lớn. Kết quả cho thấy rằng những
người mong mỏi thành công đã bán bảo hiểm
được 37/o nhiều hơn những người
không mong đợi gì. Điểm then chốt là khi một
người tự coi mình là một người thất
bại thì tương lai sẽ thể hiện đúng
điều dự đoán đó!
Tôi
nghĩ Chúa Giêsu cũng đã hiểu tâm trạng của các
tông đồ khi bị hất hủi và bị bắt
bớ, họ phải trải qua những thời gian khó
khăn để kiến tạo sự tự trọng. Suy
nghĩ tích cực về chính mình đang khi bị phê bình
gay gắt là những thử thách tâm lý khó khăn nhất
các môn đệ đang gặp phải
Những
lời khích lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta
rằng chúng ta có giá trị vì được Thiên Chúa yêu
thương. Giá trị của chúng ta không hệ tại
ở lời phê bình của người đời, hay do
tài năng khéo léo của chúng ta, nhưng vì chúng ta là môn
đệ của Người, cho dù nam hay nữ, già hay
trẻ, giáo dân hay tu sĩ, hay chỉ là một trong
những con người “bé nhỏ”.
“Kẻ
nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên
tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri… Và ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một
chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ
của Thầy… người đó sẽ không mất
phần thưởng đâu”. Có khi nào chúng ta nghĩ
rằng chúng ta đón tiếp một người nào đó
là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu không? Những
người Công giáo ở Ao Quốc thường treo
khẩu hiệu này ở nhà mình: “Người khách là Chúa
Kitô”.
Trong suốt 58
năm làm linh mục (1910-1968), thánh Padre Piô đã nghe hàng ngàn
người xưng tội. Thế nhưng, hiều vị
giáo sĩ lúc bấy giờ đã coi cha Padre Piô là kẻ
dối trá. Từ những năm mới bắt
đầu, dân chúng tung tin đồn ngài là nhà huyền bí
giả hiệu với những vết thương tự
làm khổ mình, và cả chuyện lăng nhăng về tình
dục. Năm 1931 với sự đồng ý của
Vatican, bề trên đã cấm ngài không được
giải tội và dâng thánh lễ công khai. Phải mất 2
năm để điều tra và phục hồi năng
quyền cho ngài được dâng thánh lễ. Mãi
đến ngày 5 tháng 3 năm 1934 ngài mới được
phép giải tội, nhưng chỉ ngồi tòa cho đàn ông
mà thôi. Hai tháng sau đó, ngày 12 tháng 5, ngài mới được
phép giải tội cho cả phụ nữ nữa. Vì
sự nghi ngờ này, nhiều vị trong Giáo Hội tránh né
cha Padre Piô. Nhưng vị giáo hoàng tương lai đã không
thèm để ý tới những tin đồn. Ngài đã
chỉ dựa vào cảm giác tốt lành của những
người Công giáo bình thường: “Kẻ nào đón
tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì
sẽ lãnh phần của tiên tri “.
Đức Giáo Hoàng
đã đón nhận một phần thưởng tốt
đẹp. Năm 1962, đang khi tham dự Công đồng
Vatican II, ngài nghe tin một bè bạn đang hấp hối
vì ung thư cổ họng. Ngài viết thư xin cha Padre Piô
cầu nguyện cho bà. Dr Wanda Poltawka đã được
khỏi bệnh và phục hồi sức khỏe. Và 40 năm
sau, bà đã có mặt trong buổi lễ phong thánh của
cha Padre Piô.
Chúng
ta cầu xin Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những
vị thánh, giống như cha Padre Piô. Nhưng chúng ta
cũng phải cầu xin cho chính chúng ta có sự khiêm
tốn để đón nhận họ như một
vị thánh nữa.
|