HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
LỄ THÁNH PHÊ-RÔ
VÀ PHAO-LÔ (29/06)
Cv 12,1-11 ; 2 Tm
4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
SỐNG ĐỨC TIN ĐỨC MẾN NOI
GƯƠNG HAI TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ PHAO-LÔ
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG:
(13) Khi
Đức Giê-su đến vùng kế cận
thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi
các môn đệ rằng: “Người ta
nói con Người là ai ?” (14) Các ông
thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy
Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có
người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một
trong các vị ngôn sứ”. (15) Đức Giê-su
lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai
?” (16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (17)
Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon
con ông Giô-na, Anh thật là người có
phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải
cho anh điều đó, nhưng là Cha của
Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô,
nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá
này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy.
Và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa
khóa Nước Trời. Dưới
đất, anh cầm buộc điều gì, trên
trời cũng sẽ cầm buộc như vậy.
Dưới đất, anh tháo cởi
điều gì, trên trời cũng sẽ tháo
cởi như vậy”.
2. Ý
CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN
ĐÁ TẢNG ĐỨC TIN CỦA PHÊ-RÔ.
Sau khi Si-mon đại diện cho
Nhóm Mười Hai khẳng định
Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa
hằng sống (15-16), ông đã được
khen là có phúc (17), được đổi
tên thành Phê-rô và được hứa xây
Hội Thánh trên nền tảng đức tin
mà ông vừa tuyên xưng, tiên báo Hội
Thánh ấy sẽ trường tồn, bất
chấp ma quỷ chống phá (18). Sau cùng
Người cũng trao cho ông chìa khóa
Nước Trời với quyền cầm
buộc và tháo cởi (19).
3. HỎI
ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI
1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giê-su
là “Con Thiên Chúa hằng sống”, phải
chăng Tông đồ Si-mon có ý nói về
bản tính Thiên Chúa của Người ?
ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng
Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa hằng
sống”, Phê-rô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa
của tước hiệu ông nói. Ông chỉ
muốn giải thích ý nghĩa của
tước hiệu Đấng Ki-tô, theo lời ngôn
sứ Na-than tuyên sấm về người con
sẽ nối nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi
ngày đời của ngươi đã
mãn và ngươi đã nằm xuống
với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi
đứng lên kế vị ngươi một người
do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho
vương quyền nó được vững
bền. Chính nó sẽ xây một nhà để
tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng
của nó vững bền mãi mãi.
Đối với nó, Ta sẽ là Cha.
Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm
7,12-14). Lời ấy đã không ứng
nghiệm nơi Sa-lô-mon, con vua Đa-vít. Từ
đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng
Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít sẽ
đến. Về sau, trong cuộc khải hoàn vào thành
Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cũng được
dân chúng ca tụng bằng tước hiệu
"Con Vua Đa-vít" này (x. Mt 21,9). Khi tuyên
xưng tước hiệu "Con Thiên Chúa
hằng sống", Phê-rô chưa hiểu ý
nghĩa lời ông nói. Sau đó,
Đức Giê-su đã cho biết ý nghĩa
tước hiệu này là nói về bản tính
Thiên Chúa, qua lời khen ông có phúc vì
đã được Chúa Cha thương
mặc khải cho biết sự thật ấy (x
Mt 16,17).
HỎI
2: Tại sao Đức Giê-su đổi tên Si-mon
thành Phê-rô ? Việc đổi tên chính xác
xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp
mặt (x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm
Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi Phê-rô tuyên
xưng đức tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Cũng có thể Đức
Giê-su đã đặt tên Phê-rô cho Si-mon khi
vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành
lập Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên
có lẽ việc đổi tên xảy ra sau lời
tuyên xưng đức tin của Si-mon là
hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì sau khi
đổi tên, Đức Giê-su đã nhấn
mạnh vai trò quan trọng của ông trong Hội
Thánh: Đức tin của Phê-rô vào
Đức Giê-su chính là tảng đá
vững chắc mà trên đó, Người xây
dựng Hội Thánh của Người. Ngoài
ra Đức Giê-su còn trao tối thượng
quyền cho ông để ông cầm buộc và tháo
cởi (x. Mt 16,18-19). Người cũng cho Phê-rô
đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt
10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để
ông kiên vững đức tin, hầu chu tòan sứ
mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x.
Lc 22,32). Cuối cùng, Người còn trao quyền
chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông nữa
(x.Ga 21,15-17).
HỎI
3: Một số người cho rằng: Si-mon Phê-rô
là một người đầy khuyết
điểm và đã từng phạm tội
chối Thầy ba lần, thì làm sao xứng
đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi
hành quyền cầm buộc và tháo cởi
được ?
ĐÁP:
Từ ngày được
Đức Giê-su gọi theo làm môn đệ, Si-mon
đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn:
Ông bị Thầy quở trách vì đã suy
nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài
người (x. Mt 16,23); Bị trách là kẻ
hèn tin khi đang đi trên mặt nước
(x. Mt 14,31); Bị Thầy cảnh báo không được
dự phần với Thầy, vì đã
từ chối không cho Thầy rửa chân (x. Ga
13,8-10); Nhất là vì quá tự tin vào sức mình nên ông
đã hèn nhát chối Thầy ba lần, dù
đã được Thầy cảnh báo
trước (x. Mc 14,30.66-72).
Nhưng Si-mon Phê-rô cũng có
những ưu điểm xứng đáng
được Đức Giê-su tín nhiệm trao
quyền lãnh đạo Hội Thánh. Chẳng
hạn: tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã
tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng
Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã
được Chúa đổi tên thành Phê-rô, và
được trao quyền tối thượng
cầm buộc và tháo cởi (x. Mt 16,18-19).
Có lần ông được Đức Giê-su
hứa sẽ cầu nguyện cho để luôn kiên
vững đức tin, và trao thêm sứ
mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc
22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình,
thường đại diện anh em trả
lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc
5,3-10), đại diện Nhóm Mười Hai tuyên
xưng đức tin vào lời dạy về
Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn đệ
khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên
vững đức tin, nên ông đã
được Đức Giê-su đặt
đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt
10,2), được đi trên mặt nước
(x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn
đệ thân tín nhất chứng kiến cuộc
hiển dung của Người (x. Mt 17,1), chứng
kiến phép lạ bé gái mới chết
được Người cho sống lại (x. Mt
5,37), và nhất là chứng kiến lúc Thầy
hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm
tội, nhưng Phê-rô đã lập tức sám
hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều hơn
anh em, nên ông đã được Người
tha thứ và trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn
chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến
Đức Giê-su đã thúc bách Phê-rô
chạy thi với Gio-an ra mồ và đã
sớm đạt được đức tin vào
mầu nhiệm phục sinh của Thầy (x. Ga 20,1-9).
Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh
hiện ra (x. Lc 24,34), được cùng anh em
lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao
giảng Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), có
khả năng chữa lành nhiều bệnh nhân (x.
Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giê-ru-sa-lem năm
49 (x. Cv 15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm quay
vào thành Rô-ma để bị bắt và chịu
khổ hình thập giá, dưới thời
hoàng đế Nê-rô (năm 64-67). Cái chết
của Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa cao
độ, và nêu gương đức tin
vững như đá tảng, để các
tín hữu chúng ta học tập noi theo.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.
LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh
biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá,
trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và quyền lực
tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy
sẽ trao cho anh chìa khóa Nước
Trời. Dưới đất, anh cầm buộc
điều gì, trên trời cũng sẽ cầm
buộc như vậy. Dưới đất, anh
tháo cởi điều gì, trên trời
cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt
16,18-19).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) SỨC
MẠNH CỦA TÌNH YÊU TRONG VIỆC BIẾN ĐỔI LÒNG
NGƯỜI :
Nữ tu Antoinette được bề
trên sai đến phục vụ tại một bệnh
viện lớn. Tại đây có một ông già cực
kỳ khó tính. Tiếp xúc với ai ông cũng nạt nộ
la mắng. nhất là khi gặp chuyện trái ý, ông lại
to tiếng ầm ĩ khiến mọi người chung
quanh đều khó chịu xa lánh.
Ngày nọ, khi đang mải mê làm
việc giúp các bệnh nhân khác, nữ tu Antoinette nghe thấy
tiếng hét lớn của ông già khó tính: “Mau mau mang ra đây
cho tôi một quả trứng luộc". Các y tá khác
đều lảng tránh sang phòng bên, riêng nữ tu Antoinette đã
mau mắn đến nhà bếp đem quả trứng
đến cho ông già này.
- Sao trứng chưa chín mà đã đem
cho tôi hả? Bộ muốn tôi đau bụng chết sao?
Ông lão khó tính cau có trách mắng. Nữ tu Antoinette không đáp
lại mà đem trứng xuống bếp luộc
lại.
- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Sao
lại làm ăn vô ý vô tứ như vậy hả ?
Antoinette chẳng biết phải làm gì
để chiều ý ông lão. Chị liền đi lấy
một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho
ông già khó tính một trái trứng để luộc cho
vừa ý. Thấy thế ông ta liền nổi nóng đạp
đổ bếp lò, quăng quả trứng kia xuống
nền gạch và lớn tiếng: "Cô không biết tôi là
bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà lại phải tự luộc
trứng hả?"
Nữ tu Antoinette không nói nửa
lời. Chị im lặng đi lấy chổi và cây lau nhà
đến quét dọn và lau sạch sàn nhà… Lát sau, chị
đem đến cho lão già khó tính một trái trứng khác và
nói: "Ông cố gắng dùng thử trứng này, tôi đã
luộc vừa chín tới thôi?" Bất giác, ông lính già
rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: "Tôi
thật có lỗi vì đã vô lý quát mắng cô. Giờ đây
tôi sẽ ăn quả trứng này cũng để cám
ơn lòng tốt của cô !"
Tình yêu có sức biến đổi
lạ lùng hơn bất cứ một sự biến
đổi lạ kỳ nào, nhất là nó có khả năng
biến đổi cả lòng những con người độc
ác nữa. Ước gì chúng ta biết noi gương theo
Thầy Chí Thánh Giê-su luôn nhìn thấy những điều
tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng
vào những người đang lầm lạc trong cuộc
đời này để dùng tình yêu biến đổi cảm
hoá họ.
2) PHẢI
LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU ?
Ngày xưa, một ông
vua nước Hy Lạp tổ chức một
cuộc thi làm tượng ảnh nghệ
thuật: các nghệ nhân sẽ tạc tượng
hoặc làm tranh tượng về chân dung
của nhà vua. Vua hứa sẽ ban phần thưởng
lớn cho những tác phẩm giống ngài
nhất. Nghe thông báo, các nghệ nhân từ
khắp các nước chung quanh đã
ùn ùn kép đến Hy Lạp xin vào hoàng cung ứng
thí. Nghệ nhân
Ấn-độ thì mang theo dụng cụ để
chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và
các loại ngọc trai quý giá. Nghệ nhân Ai Cập
thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá
quý và một khối đá cẩm thạch rất
đẹp. Ai cũng quyết tâm dành được giải
thưởng của nhà vua. Riêng nghệ nhân
nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến
ứng thí với bộ đồ gọt
dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi
được ban tổ chức bố trí chỗ
ở và làm việc tại một phòng
trong khu hoàng cung. Tới ngày thi, nhà vua ra
lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành
tác phẩm trong thời gian một tuần lễ.
Thế là các nghệ nhân vội vàng
bắt tay vào việc. Họ đục
đẽo, chà sát, đánh bóng để
khắc họa chân dung nhà vua Hy Lạp cho giống
như người thật. Khi một tuần trôi qua,
nhà vua truyền đem các tác phẩm
đến trưng bày tại đại sảnh
lớn trong hoàng cung để nhà vua và
bá quan trong triều đến chấm điểm. Nhà
vua hết sức hài lòng, khi chiêm ngưỡng
các tác phẩm dự thi họa lại chân dung
của mình, do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai
Cập và nhiều nước khác sáng
tác. Mỗi bức tượng, tranh
tượng hay phù điêu đều có
những đường nét tinh vi sắc
sảo, nhìn giống hệt khuôn mặt của
ngài. Các tác phẩm ấy được
tạc vẽ từ đất nung, từ
đá cẩm thạch, hay các loại vàng
bạc quý kim khác. Cuối cùng khi đến
chỗ trưng bày của các nghệ nhân Hy Lạp
thì nhà vua và bá quan rất ngạc nhiên vì không
thấy bất cứ bức tượng hay
tranh tượng nào được trưng bày,
mà chỉ thấy một phiến đá cẩm
thạch trắng, được các nghệ
nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi tác
phẩm đâu, thì một người đã đưa
ngài đến đứng trước
phiến đá và chỉ vào chân dung của
ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình
ảnh trung thực của mình, nhà vua
đã hiểu ra và hết sức cảm
động. Ngài nhận xét các bức tranh
hay tượng khác, dù có giống ngài
nhưng chúng không sống động và trung
thực bằng hình ảnh được
phản chiếu từ chính con người
thật của ngài. Nhà vua đã chấm cho
tác phẩm của đoàn nghệ nhân Hy Lạp
hạng nhất. Còn các tác phẩm khác
cũng được xếp hạng và
đều có phần thưởng tương
xứng với giá trị của chúng. Sau
đó, tất cả các tác phẩm đều
được trưng bày tại viện bảo
tàng quốc gia cho dân chúng tự do đến chiêm
ngưỡng.
3. SUY
NIỆM:
Hôm nay, Hội Thánh mừng kính 2 vị Tông
đồ là Phêrô và Phaolô chung trong một ngày lễ. Chúng ta
cùng suy nghĩ về cuộc đời của hai Tông
đồ trụ cột này của Hội Thánh để
thấy được sức mạnh tình thương của
Thiên Chúa trong việc biến đổi lòng người.
1) Về
ơn kêu gọi của hai Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Phê-rô làm nghề đánh cá tại
làng Bet-sai-đa, gần hồ Ga-li-lê. Phê-rô tên
thật là Si-mon, có em là An-rê. Khi An-rê được thầy
mình là Gio-an Bao-ti-xi-ta giới thiệu về Đức Giê-su thì"Trước hết ông gặp anh mình là Si-mon và
nói : Chúng tôi đã gặp được Đấng Mê-si-a.
Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức
Giê-su. Đức Giê-su nhìn Phê-rô và nói: "Anh là Si-mon, con ông Gio-na,
anh sẽ được gọi là Kê-pha nghĩa là Đá"
(Ga 1,41-42). Sau
đó ít ngày, đang lúc Đức Giê-su đi trên bờ
hồ Gê-nê-sa-rét, có đám đông dân chúng đi theo. Người
thấy ông Si-mon đang giặt lưới dưới
thuyền, nên Người đã xuống thuyền ấy mà
giảng dạy dân chúng ngồi trên bờ hồ. Giảng
xong, Người bảo Si-mon chèo thuyền ra giữa hồ
đánh cá. Mặc dù suốt đêm vất vả mà không
bắt được con nào, nhưng Si-mon vẫn vâng
lời Thầy: Ông chèo thuyền ra khơi thả
lưới và đã bắt được mẻ cá lạ
lùng. Trước sự lạ ấy, Si-mon tỏ vẻ kính
sợ, nhưng Người bảo ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ
chài lưới người ta. Thế
là ông đưa thuyền vào bờ rồi đi theo làm môn
đệ Người” (Lc.5,10-11).
- Phao-lô tên thật là Sao-lê quê thành Tác-sô,
miền Ki-li-ki-a. Theo học với ông thầy nổi
tiếng là Ga-ma-li-en. Sao-lê giữ luật Mô-sê nghiêm
chỉnh. Tuy là người Do Thái nhưng ông cũng có quốc
tịch Ro-ma. Sao-lê rất sùng đạo Do thái nên rất ghét
đạo mới của Đức Giê-su. Nghe tin ở
Đa-mát có nhiều tín hữu Ki-tô, Sao-lê đã xin lệnh
của thượng tế, đem quân đến thành
Đa-mát bắt các tín hữu mang về Giê-ru-sa-lem trị
tội. Nhưng khi đến cửa thành, Sao-lê đã bị
một làn chớp sáng đánh trúng bị té xuống
ngựa, mắt ông bị loà không nhìn thấy gì. Ông nghe
thấy tiếng Chúa Giê-su hiện ra hạch hỏi và ông đã
khuất phuc Người. Rồi ông được một
người trong thành là A-na-ni-a đón vào thành và dạy đạo.
Sau khi được chịu phép rửa tội, Sao-lê
lại được sáng mắt và được đổi
tên thành Phao-lô. Ông còn được Chúa Phục Sinh hiện
ra dạy dỗ cách riêng và trao cho sứ mệnh làm tông
đồ rao giảng Tin Mừng (x. TĐCV 22,3-21). Thế
là từ một người cuồng tín đi bắt
đạo, Phao-lô đã được ơn Chúa biến
đổi thành một Tông đồ dân ngoại.
2) Tính cách
của hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô khi đi theo Đức Giê-su gần
ba năm, thường đại diện Nhóm 12 trả
lời Thầy. Khi Người hỏi: “Người ta nói
Thầy là ai?” Phê-rô đã đại diện anh em thưa
rằng: "Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa hằng
sống". Có lần Phê-rô ngăn cản Thầy đừng
đi Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn, và ông đã bị
Thầy nặng lời quở trách. Phê-rô đã được
các tác giả Tân Ước đề cập tới 195
lần. Ông có tính tình nóng nảy và yêu mến Thầy. Khi
nghe Đức Giê-su cho biết các môn đệ sắp hèn
nhát bỏ Thầy chạy trốn, Ông đã hứa với
Thầy: “Dù moi người
bỏ thầy, còn Phê-rô sẽ không bao giờ". Tuy
nhiên, ông cũng là một người yếu đuối, nên
ông đã phạm tội chối Thầy 3 lần: "Tôi
không biết ông Giê-su là ai". Đến khi nghe
tiếng gà gáy và Đức Giê-su bị trói đi ngang qua chỗ
ông và Người nhìn ông, thì ông đã xúc động ra ngoài khóc
lóc thảm thiết. Đức Giê-su sau khi sống lại,
đã hiện ra hỏi Phê-rô ba lần có mến Thầy
hơn những người này không, thì cả ba lầm ông
đều tuyên xưng lòng mến: "Thưa Thầy, có.
Thầy biết con mến Thầy”. Mỗi lần như
thế, Chúa đều trao cho ông trách nhiệm chăn
dắt đàn chiên của Người (x. Ga 21,15-19)
b)
Tông đồ Phao-lô sau khi trở lại với Chúa, đã hết
lòng loan báo Tin Mừng. Ông đã đi khắp vùng Đế
Quốc Rô-ma rao giảng cho dân ngoại tin theo Chúa, chấp
nhận mọi gian nan chống đối gặp phải: bị
bắt bớ xét xử, bị đánh đòn, đắm
tầu, đói rét, ở trần… vì Danh Chúa. Nhờ sự
soi dẫn của Chúa Thánh Thần, Phao-lô đã viết
nhiều bức thư để tiếp tục giáo
huấn về cách ăn nết ở cho các tín hữu trong
các giáo đoàn đã nghe ngài giảng mà tin theo Chúa Giê-su,
nhằn răn dạy họ bỏ các tội lỗi mà
sống tốt lành theo Chúa Giê-su. Ông cũng dạy họ
đào sâu về nhiều mặt như: Kinh Thánh, tín lý, luân
lý, phụng vụ… Phao-lô còn nêu gương sẵn sàng
chịu mọi đau khổ hơn mọi người vì
danh Chúa Giê-su như ông đã viết: “Họ là người
phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như
người điên: Tôi còn hơn họ nữa! Hơn
nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp
bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. Năm
lần tôi bị người Do thái đánh bốn
mươi roi bớt một. Ba lần bị đánh
đòn, một lần bị ném đã, ba lần bị
đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa
biển khơi… (2 Cr 11,23-25…)
3) Về
lòng mến Chúa của hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô: Theo sách Công vụ Tông
đồ, vào lễ Ngũ Tuần, sau khi đón nhận
đầy ơn Thánh Thần, Phê-rô đã cùng các Tông
đồ bắt đầu thi hành sứ vụ loan báo Tin
Mừng. Ông đã giảng một bài đầu tiên tại
Giê-ru-sa-lem. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, đã
có 3 ngàn người xin tòng giáo. Sau đó Phê-rô cùng Nhóm 11 chọn
ông Mat-thi-a thế chỗ cho Giu-đa phản bội. Ông cũng
được Thánh Thần ban ơn làm nhiều phép lạ
cứu nhân độ thế kèm theo lời giảng. Ông
đã chữa cho một người què tại cửa
Đền thờ, và đón nhận dân ngoại vào Hội
Thánh. Người ta tin rằng chỉ cần cái bóng
của ông lướt qua bệnh nhân cũng đủ
chữa lành cho họ. Phê-rô và các Tông đồ trong Nhóm 12
ưu tiên loan báo Tin Mừng cho dân Do thái. Ông đã bị các
đầu mục dân Do thái bắt bớ xét hỏi nhiều
lần và cấm rao giảng Danh Đức Giê-su. Nhưng
ông đã tuyên bố trước Thượng Hội
Đồng rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là
vâng lời người phàm… Về những sự kiện
đó, chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần” (Cv 5,29-32).
Vào lúc cuối đời, khi đang ở Rô-ma và có nguy
cơ bị bắt, Phê-rô đã nghe lời các tín hữu để
cải trang và đã trốn thoát ra ngoài thành Rô-ma để tiếp
tục lãnh đạo Hội Thánh. Nhưng sau đó ông đã
gặp Đức Giê-su đang vác thánh giá đi về thành.
Ông hỏi Người: “Quo vadis ?” (Thầy đi đâu?).
Chúa trả lời: “Ta vào thành Rô-ma để chịu đóng
đanh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Phê-rô
hiểu ý Chúa muốn ông ở lại Rô-ma để làm
chứng cho Chúa giữa các tín hữu, nên ông lại đi vào
thành. Sau đó Phê-rô bị bắt và bị kết án tử
hình thập giá vào năm 65 dưới thời hoàng
đế Nê-rông. Khi chịu đóng đinh, để
tỏ lòng tôn kính Chúa Giê-su, ông xin lính đóng đinh và quay ngược
đầu xuống đất. Ngày nay một ngôi Đền
thờ Thánh Phêrô to lớn trong thành Rô-ma, có chứa mộ
phần của thánh Phê-rô. Trong thời gian giảng
đạo ở Rô-ma, thánh Phê-rô đã viết 2 bức thư
cho các tín hữu miền Tiểu Á đang chịu bách
hại, khuyên dạy họ hãy can đảm sống đức
tin bằng việc thực thi sự hiệp nhất yêu
thương nhau, vâng phục các mục tử, đoạn
tuyệt tội lỗi và chờ đợi ngày Chúa quang lâm
sắp đến.
- Tông
đồ Phao-lô: Phao-lô thực là dụng cụ Chúa dùng
để đưa nhiều người về với
Chúa. Ông là một người trung thành, can đảm,
thẳng thắn… Là cầu nối kết giữa dân Do thái
và dân ngoại, giữa Cựu ước và Tân ước.
Nhờ Phao-lô mà dân ngoại trong đó có chúng ta không phải
chịu nghi thức cắt bì của đạo Do Thái và không
phải mang “ách Luật Mô-sê” như dân Do thái xưa. Từ
khi gặp Chúa và theo làm Tông đồ của Chúa, Phao-lô có
lòng yêu mên Chúa cách đặc biệt. Ông đã nêu
gương sáng về lòng tin yêu Chúa Giê-su để các tín
hữu noi theo. Chẳng hạn: “Đối với tôi
sống là Đức Kitô” (Pl 1,21) “Tôi coi mọi
sự như phân tro, để chỉ mong được
lời lãi Tình yêu Chúa Kitô" (Pl 3,8).- "Ai có
thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô?
Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách,
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? … Tôi tin chắc
rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên
thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay
tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,
chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài
thọ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra
khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi
Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). "Tôi
sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô
sống trong tôi" (Gl 2,20). Cuối cùng, trong thời
kỳ người Rô-ma bách hại đạo Công giáo, Phao-lô
đã bị bắt tù, và sau cùng ngài đã bị án chém
đầu ở ngoài thành Rôma vào năm 67.
4) Sống
“hiệp nhất” để làm chứng cho Chúa noi
gương hai vị Phê-rô và Phao-lô:
- Hiệp nhất trong
đức tin: Hai vị Tông
đồ đã hiệp nhất một lòng một ý trong sứ
mệnh rao giảng Tin Mừng. Mặc dù còn có nhiều khác
biệt về bản thân, tính tình, về ơn gọi theo
Chúa, về xu hướng truyền giáo… nhưng cả hai
đã tạo nên một sự hiệp nhất trong đa
dạng, qua việc cùng trở thành nền tảng xây dựng
toà nhà Hội Thánh, sẵn sàng chết vì Danh Chúa. Hai vị
đã được Hội Thánh tôn vinh trong một ngày đại
lễ. Các ngài đã trở nên biểu tượng của
sự hiệp nhất trong đa dạng của Hội
Thánh: “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong
điều chính, yêu thương trong tất cả”. Đó chính
là khuôn vàng thước ngọc cho các tín hữu noi theo.
- Hiệp nhất trong lòng
mến: Ngày nay muốn
trở nên tông đồ của Chúa Giê-su, các
tín hữu chúng ta phải có lòng mến Chúa noi
gương hai vị Tông đồ. Nhờ lòng mến Chúa
thôi thúc, chúng ta sẽ được ơn Chúa thanh
luyện khỏi những đam mê, thói hư, các
vết nhơ tội lỗi. Nhờ siêng năng nghe
Lời Chúa và tham dự thánh lễ rước
lễ mỗi ngày, xét mình mỗi tối
trước khi đi ngủ, học tập theo Chúa
Giê-su… chúng ta cũng sẽ có thể nhìn tha nhân bằng
ánh mắt bao dung nhân hậu, sẽ ăn nói
điềm đạm, vui vẻ chân thành, ứng
xử hiền hòa và khiêm tốn phục vụ … Nhờ
đó chúng ta sẽ nên tông đồ giáo dân nhiệt thành làm
chứng cho Chúa, noi gương hai vị Tông đồ
Phê-rô và Phao-lô.
4.
THẢO LUẬN:
Đối
với bạn, Đức Giê-su là ai ? (Là
một ngôn sứ, để xin Người cầu
bầu với Chúa Cha cho ta; hay là một thần
tượng để ta chiêm ngưỡng thán
phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên
Chúa, để ta tin theo và sẵn sàng bỏ
mọi sự theo làm môn đệ Người,
sẵn sàng vác thập giá là đón
nhận các đau khổ gặp phải, kết hiệp
với sự đau khổ của Người trên
cây thập giá để góp phần cứu rỗi tha
nhân ?)
5.
NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúng con
cũng muốn được góp phần xây
dựng Hội Thánh. Nhưng muốn làm
được như vậy, chúng con phải
có đức tin mạnh như thánh Phê-rô. Xin
Chúa cho chúng con trở thành những viên
đá đức tin sống động
vững chắc, làm thành nền móng xây
nên tòa nhà Hội Thánh. Xin Chúa hãy
giúp chúng con tránh những lời
nói xúc phạm khó ưa, những hành
động vụ lợi ích kỷ, để
sống hòa hợp với tha nhân. Xin giúp
chúng con loại bỏ những đam mê bất
chính và các thói hư tật xấu,
loại bỏ tính háo danh, thói ưa châm
chọc chỉ trích kẻ khác, loại bỏ
tư tưởng tự mãn và hẹp
hòi… Nhờ đó, chúng con trở
thành những chứng nhân cho tình yêu bao dung nhân
hậu của Chúa noi gương hai thánh Tông Đồ
Phê-rô và Phao-lô.
- LẠY CHÚA. Tòa nhà
Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn
đang tiếp tục được xây dựng những
chỗ còn dang dở. Xin Chúa giúp mỗi tín
hữu chúng con tích cực góp phần
xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh
sớm hoàn thành. Xin cho chúng con luôn sống yêu
thương hòa thuận để gia đình
và Giáo xứ chúng con trở thành
một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất
và bình an. Nhờ đó nhiều
người sẽ nhận biết tin thờ
Chúa và sau này cùng được chia
sẻ niềm vui ơn cứu độ với
chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|