Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Kitô
hữu --- Suy niệm của JKN
CÂU HỎI
GỢI Ý:
1) Phải can
đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là
phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can
đảm? Câu nào đúng hơn?
2) Bạn có quan
tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho
Thiên Chúa, cho Đức Giêsu, cho chân lý, công lý và tình
thương) trong đời sống không?
3) Làm sao
để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên
Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?
SUY TƯ
GỢI Ý:
Bài Tin Mừng
hôm nay nói về đức "vô úy" (không sợ) hay
"can đảm" mà người Kitô hữu sẽ có
khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế
(làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh
nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay
nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta
là làm chứng cho Đức Giêsu: "Điều Thầy
nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và
điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên
mái nhà rao giảng". Sứ mạng ấy không phải là
ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem
đến những kết quả tốt: "Ai tuyên
bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người
ấy trước mặt Cha Thầy", hoặc hậu
quả xấu: "Ai chối Thầy trước mặt
thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người
ấy trước mặt Cha Thầy".
1) Nghĩa vụ ngôn sứ trong
đời sống Kitô hữu
Đây là
một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Kitô
hữu thường lãng quên, phần lớn là do những
người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội
chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ.
Nói chung, người ta có khuynh
hướng giản lược Kitô giáo vào nghĩa vụ
tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà
bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
- vương
đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và
Giáo Hội), và
- ngôn
sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình
thương bằng lời nói và nhất là bằng
đời sống).
Thật
vậy, người ta thường coi việc đọc
kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng
hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với
người khác.
Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí
tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm
chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả
nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị
ức hiếp, đối xử bất công. Thậm
chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là
nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế,
người Kitô hữu đang trình bày cho thế giới
bằng chính đời sống mình một thứ Kitô giáo
què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Kitô giáo
"thuốc phiện", đầy tính ru ngủ… Kitô giáo đó
khác hẳn với thứ Kitô giáo do Đức Giêsu
thiết lập, một Kitô giáo coi trọng sự thật,
công lý, tình thương, mang nặng tính
dấn thân và phục vụ.
Chúng
ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức
Giêsu coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: "Ta muốn lòng nhân
chứ đâu cần lễ tế" (Mt 9,13);
"Những điều quan trọng nhất trong Lề
Luật là công lý, tình thương và sự chân thật"
(Mt 23,23b); "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật
trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh
em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy
để của lễ lại đó trước bàn
thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã,
rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt
6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: "Mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau"
(Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay
việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ,
mặc dù những việc này không được bỏ hay
coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận
ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải
thật sự yêu thương anh chị em mình - là hiện
thân của Đức Giêsu - cũng được Thánh
Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: "Anh em có muốn tôn kính
thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng
bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc
lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ
mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài
trời. Đấng đã từng nói "Đây là
mình Thầy" cũng chính là Đấng sẽ nói "Các
ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng
những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô
đang hấp hối vì đói khát? Hãy
cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy
những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!" (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2).
Có phải nhiều người chúng ta trong
thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn
không?
Dù vô tình hay
cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai
nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất
kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần
linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về
thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi
hành nó. Động lực thúc đẩy người ta
thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích
lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa
việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm
mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại
cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa
vụ kia mang tính vị tha, đòi
hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải
xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi.
Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho
quyền lợi chung của con
người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành
hai nghĩa vụ này, cần phải "dám", phải
"vô úy", "không sợ", phải can đảm chấp
nhận đau thương. Đừng
nghĩ rằng có đức "vô úy" rồi thì ta
mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà
hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết
tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ
rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không
muốn can đảm.
2. Tại sao lại "đừng
sợ"?
Đức Giêsu
đưa ra một số lý do để khuyên ta
đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên
Chúa hơn sợ người ta
Ngài
đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn
để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: "Đừng sợ
những kẻ giết thân xác mà không giết
được linh hồn. Hãy sợ
Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác
trong hoả ngục". Thật vậy, rất có
thể một ngày nào đấy Vua Giêsu nói với ta:
"Quân bị nguyền rủa kia, hãy
đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời
đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ
thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã
không cho ăn…" (Mt 25,41tt). Hoặc
"Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các
ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự
thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta
bị đàn áp, bách hại, hàm oan…". Bài Tin Mừng
cũng nói: "Ai chối Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người
ấy trước mặt Cha Thầy". Nghĩ như
thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm
những gì cần phải nói phải làm. Không chịu
chấp nhận tai họa nhỏ
để rồi phải chấp nhận một tai
họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
b) Phải tin vào
phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng
của Thiên Chúa
Con người
- nhất là người Kitô hữu - là "con cái Thiên
Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng
nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh
của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản
tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu
thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con
người có một phẩm giá hết sức cao quí.
Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con
Một mình xuống thế chịu chết cho con
người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được
một hào", thế mà "không một con nào rơi
xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái
Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí
giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá
hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên
đầu anh em, Người cũng đếm cả
rồi"! Như vậy, có chuyện gì xảy
đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do
thánh ý Ngài?
3. Xét mình
Như vậy,
nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng
liệu ta có đủ đức tin để không sợ
hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng?
Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin
rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng
kết án những kẻ tuyên xưng khác
với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm
tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám
dấn thân thật sự, rất có thể ta lại
thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả
những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải
dấn thân như đức tin và lương tâm đòi
hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận
trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định
được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có
thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát
"một cách có lý" hầu không ai chê trách
được! Và cũng như thầy tư tế,
thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn
người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37),
ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ)
để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm
chứng) của mình. Đó quả là vấn đề
tế nhị của lương tâm mà mỗi Kitô hữu
cần năng tự vấn!
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha, con là người nhút
nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không
muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật
nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có
tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự.
Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà
trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau
khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm.
Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!
|