Dũng cảm tuyên xưng
(Chú giải và
suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta đang
ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin
Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau:
1) Dẫn
nhập (9,36–10,5a):
a) Các yếu tố xác định (9,36-38),
b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a);
2) Phần chính
(10,5b-42):
a) Nhiệm vụ của các tông
đồ (cc. 5b-15),
b) Những khó khăn và cách
thức thắng vượt (10,16-42);
3) Kết (11,1).
Riêng phân
đoạn 10,16-42 có bố cục như sau (các
đoạn in nghiêng thuộc về bài đọc phụng
vụ):
1) Sự bách
hại các tông đồ phải chịu (10,16-39):
a) Hoàn cảnh tởng quát của
các sứ giả (10,16),
b) Loài người sẽ xử
tệ với các ông (10,17-23),
c) Số phận chung của môn
đệ và thầy (10,24-25),
d)
Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31),
e)
Tương quan của các ông với Đức Giêsu
(10,32-39);
2) Việc
tiếp đón các tông đồ (10,40-42).
2.- Bố cục
Bản văn
10,26-33 có thể chia thành hai phần:
1) Lý do khiến
các môn đệ không được nao núng (10,26-31);
2) Tương
quan của các môn đệ với Đức Giêsu (10,32-33
[39]).
3.- Vài điểm chú giải
- Vậy anh em đừng sợ
(26): Từ ngữ “vậy” nối cc. 26-27 với
phần đi trước, nhưng không phải là
để đưa tới một kết luận, mà là
một lời khích lệ. Ý nghĩa không phải là”
đừng sợ họ, bởi vì họ không thể làm gì
anh em; nhưng là: đừng sợ họ, bởi vì anh em
không được mong mình có một số phận bớt
đau thương hơn Thầy (cc. 24-25). Như thế,
dù vẫn sợ những người bách hại, anh em phải
đảm nhận lấy nỗi sợ hãi ấy mà cứ
tuyên xưng niềm tin. Anh em sợ hãi người ta là
chuyện dễ hiểu (cc. 17-25), nhưng đừng vì
thế mà thôi làm chứng.
- được tỏ
lộ … được biết (26): Đây là thái bị động
thay tên Thiên Chúa, có nghĩa là: Thiên Chúa tỏ lộ … Thiên
Chúa thấu biết. Lý do thứ nhất khiến môn
đệ không phải sợ, đó là sứ điệp
vĩ đại về Nước Thiên Chúa sắp
được tỏ lộ. Dù thế nào, Tin Mừng
cuối cùng sẽ tỏa rạng vinh hiển.
- những kẻ
giết thân xác (28):
Lý do thứ hai khiến không phải sợ, đó là sự
sống chân chính của con người được
bảo vệ. Những kẻ bách hại chỉ có thể
“giết” (apoktenai); duy mình Thiên Chúa mới có thể “tiêu
diệt” (apolesai) trọn con người (“thân xác” và “linh
hồn”).
- hỏa ngục (28): Từ Hy-lạp geenna
(được dịch là “hỏa ngục”) phiên âm từ
Híp-ri gê-Hinnôm. Gần cổng thành phía nam Giêrusalem, có thung
lũng gọi là gê’-Hinnôm hoặc gê’ben-Hinnôm (“thung lũng
của con cái Hinnôm”). Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm
rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị trừng
phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát
tế con cho thần Môlốc của người Ammôn)
đã lên tới cực độ (Gr 7,30–8,3; 19,7; 32,35). Lúc
đầu, lửa và giòi bọ là những tác nhân xử lý
các tử thi, đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc
riêng rẽ (giòi bọ: G 25,5; Hc (hp) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…),
nay trở thành biểu tượng của số phận
khủng khiếp của những kẻ không chịu
đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi.
- Ngoài ý của Cha anh em
(29): Lý do thứ ba
khiến không phải sợ, đó là Thiên Chúa quan phòng trên
toàn thể thọ tạo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Lý do khiến các môn
đệ không được nao núng (26-31)
Mt không kể
cho biết cách nào và khi nào thì lời loan báo về số
phận của các sứ giả được chứng
thực. Nhưng tác giả mô tả nhiều lần các
lời Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó (16,21;
17,22t; 20,18t) và ghi chi tiết cả diễn tiến thực
hiện cuộc Thương Khó nữa (ch. 26–27). Như
vậy, trước khi các môn đệ và tôi tớ rơi
vào số phận này, Thầy và Chúa của họ đã
phải chịu rồi.
Đoạn
10,26-31 nhắc các tông đồ nhớ lại nhiệm
vụ trọng yếu của các ông là loan báo thẳng
thắn và công khai sứ điệp đã nhận từ
nơi Đức Giêsu (x. 10,7; 10,27). Đức Giêsu nhấn
mạnh ở đấy: “Điều Thầy nói với
anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều
anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng” (10,27) và
kết thúc bằng “Vậy anh em đừng sợ” (10,31), và
cả ở 10,28, Người nhắc lại “anh em
đừng sợ”. Dù sợ hãi khi đứng
trước những đe dọa của bạo lực
loài người, các sứ giả không được
để mình bị ngăn cản khiến không chu toàn
được nhiệm vụ. Họ phải thắng
vượt nỗi sợ hãi này và tiếp tục trung thành
với nhiệm vụ. Để đạt được
như thế, họ phải đừng để ý
đến người ta, nhưng phải để ý
đến Thiên Chúa. Quyền của Ngài là có thể “tiêu
diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (10,28)
thì đáng sợ hơn nhiều, còn sự ân cần
chăm sóc và sự quan phòng đầy tình phụ tử thì
đáng họ tin tưởng hoàn toàn (10,29-31).
* Tương quan
của các môn đệ với Đức Giêsu (32-33 [39])
Đoạn
cuối cùng nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu
(10,32-39). Coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng
mọi giá sự hiệp nhất với Người, là con
đường duy nhất để có sự hiệp
nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở
đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn
giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy
ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong
tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha
trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em),
Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải
tự quyết định, phải chọn lấy sự
hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng
thắn với Đức Giêsu để qua Đức
Giêsu, đạt được sự hiệp thông với
Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì
cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là
người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là
loan báo không sợ hãi sứ điệp của Người
(x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng
đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói
đến loài người cách tổng quát nữa.
Tương quan được giới hạn lại
với Đức Giêsu, với các thành viên của một
gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa,
lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức
Giêsu, sự hiệp nhất với Người, phải
được coi trọng hơn mọi người, cho
dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với
những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng,
phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con
đường đưa tới thập giá; sự
hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự
hiệp nhất trọn vẹn với bản thân
Người và phải được coi trọng hơn
cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào
chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm
được mạng sống (10,39). Điều
được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định
khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn
đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong
mọi trường hợp, sự hiệp nhất với
Đức Giêsu phải được coi trọng hơn
mọi sự và mọi người.
+ Kết luận
Đức Giêsu
đã yêu cầu các môn đệ can đảm loan báo
sứ điệp của Người (10,27). Người
cũng yêu cầu các ông phải tin tưởng hoàn toàn
nơi Người (c. 32). Các ông phải chứng tỏ
một cách vô điều kiện là cách ông thuộc về
Người và tin vào sứ điệp của
Người, mà trước tiên đây là sứ điệp
của Cha trên trời. Một ngày nào đó, Đức Giêsu
sẽ tuyên bố nhận hay từ khước các ông là tùy
điểm này (c. 28). Một lần nữa Đức Giêsu
lại tỏ cho thấy địa vị và uy quyền vô
song của Người. Án xử của Thiên Chúa về
chúng ta, cũng như số phận đời đời
của chúng ta, tùy thuộc cách chúng ta đối xử
với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Sợ loài
người mà không sợ Thiên Chúa, Đấng có thể
“tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”,
là chuyện liều lĩnh. Tác giả ghi lại đây cả
những lời đe dọa (về hỏa ngục),
đây là dấu cho thấy rõ ràng là chỉ đưa
những lời khuyến cáo mà thôi thì vẫn không cản
được các tín hữu sa sút (x. 5,22.29; 23,15.33). Phải
đe dọa để họ nhớ rõ giáo huấn của
Đức Giêsu: nếu họ nhận Đức Giêsu
trước mặt người đời, Đức
Giêsu sẽ nhận họ trước mặt Thiên Chúa;
nếu họ chối Đức Giêsu trước mặt
người đời, Người cũng sẽ chối
họ trước mặt Thiên Chúa.
2. Người
tín hữu biết chắc chắn mình ở trong tay Chúa Cha.
Họ cũng ý thức rằng mình thuộc về
Đức Giêsu, Đấng Mêsia. Chính xác tín này giúp họ
chấp nhận mọi sự, kể cả việc tử
đạo, một cách thanh thản. Tin tưởng vào Thiên
Chúa không phải là chắc chắn rằng mình sẽ
được giải cứu khỏi thử thách,
nhưng là biết vững vàng rằng chuyện mình bị
kết án sẽ được biện minh và
được đánh giá đúng mức. Ý thức rằng
mình thuộc về Đức Giêsu làm cho họ vững vàng
và can đảm.
3. Nếu
việc làm chứng đôi khi đưa người môn
đệ đến chỗ chết, thì không phải là
mặc dù được Thiên Chúa là Cha quan phòng,
người ấy vẫn phải chết! Y như thể
Cha có mặt lúc vị tử đạo bị giết,
nhưng không thể cứu được người
ấy. Mt nhấn mạnh rằng, tuy có mặt vào lúc con cái
mình bị giết, Thiên Chúa vẫn không muốn tách cái
chết ấy ra khỏi ý muốn của Ngài: nếu Thiên
Chúa giúp đỡ vị tử đạo chính là vì cuối
cùng Ngài muốn vị ấy phải chết.
|