HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG
NIÊN A
LỄ MÌNH
MÁU CHÚA KI-TÔ
Đnl 8,2-3.14b-16a ; I
Cr 10,16-17 ; Ga 6,51-58
ĂN BÁNH THÁNH THỂ SẼ
ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Ga 6,51-58
(51) “Tôi
là Bánh Hằng Sống từ trời
xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ
được sống muôn đời. Và
Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt
tôi đây, để cho thế gian được
sống”. (52) Người Do thái liền tranh
luận sôi nổi với nhau. Họ nói: “Làm
sao ông này có thể cho chúng ta ăn Thịt ông
ta được ?”. (53) Đức Giê-su nói
với họ: “Thật, tôi bảo thật các ông:
nếu các ông không ăn Thịt và uống Máu
Con Người, các ông không có sự
sống nơi mình. (54) Ai ăn Thịt và uống
Máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy
sống lại vào ngày sau hết. (55) Vì
Thịt tôi thật là của ăn, và Máu tôi
thật là của uống. (56) Ai ăn Thịt và
uống Máu tôi, thì ở lại trong tôi, và
tôi ở lại trong người ấy. (57) Như
Chúa Cha là Đấng hằng sống đã
sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế
nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ
tôi mà được sống như vậy. (58)
Đây là Bánh từ trời xuống. Không
phải như bánh tổ tiên các ông đã
ăn, và họ đã chết. Ai ăn Bánh
này, sẽ được sống muôn
đời”. (59) Đó là những
điều Đức Giê-su đã nói khi
giảng dạy trong hội đường ở
Ca-phác-na-um.
2. Ý
CHÍNH:
Tin Mừng lễ Mình Máu
Chúa hôm nay gồm mấy điểm chính như
sau:
Đức Giê-su tự nhận
là Bánh Hằng Sống. Ai ăn vào thì
sẽ được sống muôn đời (51).
Bánh đó là Thịt Mình của
Người (51). Khi người Do thái
thắc mắc, thì Đức Giê-su lại
càng nhấn mạnh: Nếu các ông không ăn
Thịt và uống Máu Con Người, các
ông không có sự sống nơi mình (52). Ngay
từ bây giờ họ đã
được kết hiệp với
Người (56) và được sống
nhờ Người (57). Khác với bánh
man-na mà tổ tiên họ xưa đã ăn mà
vẫn bị chết, còn ai ăn Bánh Thánh
Thể Đức Giê-su ban cho, sẽ được
sống muôn đời (58).
3.
CHÚ THÍCH:
- C 51-52: + Bánh Hằng Sống: Đức Giê-su là sự
sống và ánh sáng của Thiên Chúa (x. Ga
1,4), được ban cho loài người
dưới hình dạng tấm bánh có
thể ăn được. Bánh này
chứa đựng sức sống thiêng liêng
vĩnh cửu, và những ai ăn thì
sẽ nhận được sự sống
ấy. + Từ trời xuống:
Đức Giê-su từ Chúa Cha mà đến
(x. Ga 6,46; 16,28). + Bánh tôi sẽ ban
tặng: Bánh Thánh Thể Người
sẽ lập trong bữa Tiệc Ly sau này (x. Lc
22,19-20). + Chính là Thịt tôi đây: Bánh
Hằng Sống được đồng hóa
với Thịt của Đức Giê-su. Từ
ngữ “thịt” trong tiếng Hy lạp là sarx,
ám chỉ thịt của người sống, bao
gồm cả hồn xác (x. Ga 1,14). + Để cho thế
gian được sống: Hiệu quả
của Bánh Thánh Thể là thông ban cho
những ai lãnh nhận sẽ được
sự sống thiêng liêng, mà Đức Giê-su
đã chuộc lại bằng cuộc Tử
nạn và Phục sinh của Người. +
Người Do thái liền tranh luận với
nhau: Làm sao ông này cho chúng ta ăn thịt ông ta
được ?: Họ thắc mắc
vì đã hiểu thịt đó là thân
xác của Đức Giê-su hiện tại,
người đang hiện diện ở
giữa họ, trong khi Đức Giê-su nói
về Thịt của Người dưới
hình tấm bánh dùng trong bữa tiệc
Vượt Qua. Bánh ấy sau lời truyền
phép sẽ hóa thành Thịt của
Đức Giê-su tử nạn và phục sinh (x.
1 Cr 11,23-26). Thịt trong bí tích Thánh Thể
này mới thực là Bánh mà
Người sẽ ban để cho thế gian
được sống.
- C 53-54: +
Thật, tôi bảo thật các ông: Đức Giê-su không cải
chính khi người Do thái hiểu lầm lời
Người theo nghĩa đen, mà Người càng
nhấn mạnh hơn khi quả quyết: “Thật, tôi
bảo thật các ông”. + Nếu các ông không ăn
Thịt và uống Máu Con Người…:
Thịt Máu Người trong bí tích
Thánh Thể là một điều kiện không
thể thiếu để được sống
đời đời. Nếu họ không ăn
uống Thịt Máu Người trong bí tích
Thánh Thể, thì họ sẽ không nhận
được sự sống đời
đời do Người chuộc lại
nhờ cuộc Tử nạn và Phục sinh. + Ai
ăn Thịt và uống Máu tôi, thì
được sống muôn đời: Đây
là kiểu nói khác lặp lại tư
tưởng trên. + Tôi sẽ cho người
ấy sống lại vào ngày sau hết:
Hiệu quả của việc ăn Thịt và
uống Máu Chúa khi lên rước lễ là sẽ
được Chúa Phục Sinh ban sự
sống siêu nhiên, làm cho họ được
sống lại trong ngày tận thế.
- C 55-56: + Vì Thịt Tôi: Chúa Giê-su nhấn mạnh Thịt
và Máu Người thật là lương
thực để ăn uống, và thông ban
sự sống muôn đời. Qua bí tích
Thánh Thể, người ta sẽ
được nghe Lời Người
để có đức tin, sẽ
được ăn Thịt uống Máu
Người để được nuôi
dưỡng đức tin. Nhờ
đức tin này họ sẽ có sự
sống đời đời. + “Ở lại trong
tôi và tôi ở lại trong người ấy”:
Câu này nói lên sự kết hiệp mật
thiết giữa Chúa Giê-su Thánh Thể
với người rước lễ.
Sự kết hiệp này giống như sự
kết hiệp giữa hai người bạn tâm
giao luôn nghĩ đến nhau và sống vì nhau.
- C 57-59: + Như Chúa Cha là
Đấng hằng sống đã sai tôi…: Chúa Giê-su được
Chúa Cha sai xuống thế gian. Người sống
nhờ Chúa Cha thế nào, thì
Người cũng ban cho những ai
rước Mình Máu Người
được tham phần sự sống siêu nhiên
như vậy. + Thì kẻ ăn tôi cũng sẽ nhờ tôi
mà được sống như vậy:
Sự sống siêu nhiên ấy phát xuất
từ Chúa Cha, qua Chúa Giê-su, xuống tới
người tín hữu đã lãnh nhận
bí tích Thánh Thể. + Đây là Bánh từ
trời xuống…: Sự sống ban cho kẻ
rước lễ là sự sống
đời đời phát xuất từ
Thiên Chúa, khác hẳn sự sống thể
xác do man-na. Man-na là bánh từ trên không trung
rơi xuống, nên dân Do thái thời Mô-sê, dù
đã ăn man-na suốt trong thời gian Xuất Hành
40 măm trong hoang địa, nhưng vẫn phải
chết. + Ai ăn Bánh này sẽ được
sống muôn đời: Đây là câu tóm
lược bài giảng về Bánh Hằng
Sống. Chúa Giê-su tự ví là Bánh từ
trời mà xuống. Người mang lại
sự sống thiêng liêng cho loài người
đang phải chết vì phạm tội, nhờ
cuộc Tử nạn và Phục sinh của
Người. + Hội đường
ở Ca-phác-na-um: Nơi Đức Giê-su
giảng về Bánh Hằng Sống là một
hội đường Do thái ở thành
Ca-phác-na-um gần biển hồ Ga-li-lê, nơi
Đức có trụ sở truyền giáo của Đức
Giê-su (x Ga 6,1).
4.
HỎI ĐÁP:
-
HỎI 1: Tại sao người Do thái và
nhiều môn đệ Đức Giê-su đã bỏ không
đi theo Đức Giê-su và họ đã tranh luận
với nhau điều gì? Tại sao ông Phê-rô và
Nhóm Mười Hai vẫn chọn ở lại
với Đức Giê-su? Ông Phê-rô đã
đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng
đức tin như thế nào?
ĐÁP:
+ Sở dĩ người Do
thái và nhiều môn đệ Đức Giê-su
đã bỏ không đi theo Người nữa
(x. Ga 6,66), vì đã hiểu lời
Đức Giê-su dạy về việc ăn Bánh Thánh
Thể theo nghĩa đen, nghĩa là ăn Thịt Máu của
Người, giống như ăn thịt các con chiên,
bò, gà… Do đó, họ đã tranh cãi với nhau:
“Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn
thịt ông ta được ?”. Cũng như các
thân nhân Đức Giê-su ở Na-da-rét có
lần đã coi Người bị mất trí
(x. Mc 3,21), thì ở đây các đầu mục dân
Do thái cũng coi lời Đức Giê-su thật
chói tai và không thể chấp nhận được (x.
Ga 6,52). Tuy nhiên, thay vì cải chính, Đức
Giê-su lại càng nhấn mạnh về điều này hơn:
“Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông
không ăn Thịt và uống Máu Con
Người, các ông không có sự sống
nơi mình… Vì Thịt tôi thật là của
ăn, và Máu tôi thật là của uống” (Ga
6,53.55). Nghe vậy, một số môn đệ đã hiểu
rõ Đức Giê-su nói về bí tích Thánh Thể và đã bỏ
đi vì không tin lời Người.
+ Riêng Phê-rô và Nhóm
Mười Hai vẫn chọn ở lại, sau khi
nghe giảng về Bánh Hằng Sống, vì
các ông đã tin Người là Đấng Thiên Sai
và Lời Người là sự thật, dù
bây giờ chưa hiểu rõ tại sao. Khi
được Thầy hỏi, Phê-rô đã đại
diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng
đức tin như sau: “Bỏ Thầy chúng con
biết đến với ai ? Thầy mới
có những lời đem lại sự
sống đời đời. Phần chúng con,
chúng con đã tin và nhận biết Thầy chính
là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
HỎI
2: Luật Mô-sê cấm dân Do thái không được
ăn máu và thịt thú chưa cắt
tiết (x. Lv 19,26), và nghị quyết của Công
Đồng Giê-ru-sa-lem năm 49 cũng yêu cầu các
Ki-tô hữu gốc dân ngoại “phải kiêng ăn
đồ đã cúng cho ngẫu tượng,
kiêng ăn tiết và ăn thịt loài vật không
cắt tiết và tránh gian dâm” (x. Cv 15,29).
Vậy tại sao Giáo Hội Công Giáo lại cho phép
các tín hữu ăn tiết canh là món ăn máu
đông ?
ĐÁP:
Thời Mô-sê, người ta tin
rằng: Máu là sinh khí tụ lại, nên
chỉ dành riêng để tế lễ dâng cho Thiên
Chúa trong ngày lễ Xá Tội. Vì Chúa chính là
chủ tể của sự sống (x. Lv 17,11).
Đàng khác, tục uống máu các con vật được
sát tế dâng cho thần linh, vẫn có trong nghi
lễ tôn giáo của dân ngoại, nên Luật Mô-sê
cấm dân Ít-ra-en uống máu và ăn thịt
thú chưa cắt tiết giống như dân
ngoại (x. Lv 19,26).
Ngày nay Hội Thánh không cấm các
tín hữu ăn tiết canh hay thịt thú vật
chưa cắt tiết, vì Luật Mô-sê đã được
Đức Giê-su kiện toàn (x. Mt 5,17), khi truyền
cho các tín hữu “ăn Thịt và uống Máu của Người”
(x. Mt 26,26-28).
Còn về việc Công Đồng
Giê-ru-sa-lem năm 49 ra nghị quyết không buộc
lương dân theo đạo phải chịu phép Cắt Bì
theo luật Mô-sê, mà chỉ yêu cầu họ “kiêng ăn
đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn
tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và
tránh gian dâm”. Thực ra những yêu cầu không ăn
tiết này không phải vì lý do đức tin mà
chỉ là một phương thế để bảo
vệ sự hiệp nhất nội bộ của cộng
đoàn Hội Thánh, bấy giờ gồm các tín
hữu gốc Do Thái và gốc lương dân hiệp
nhất và ăn uống chung mâm bàn với nhau, như
lời ông Gia-cô-bê đã phát biểu: “Phần tôi, tôi xét là
không được gây phiền hà cho những người
gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa. Nhưng
chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức
ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian
dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, và
kiêng ăn tiết, Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi
thành ông Mô-sê, đều có những
người rao giảng: Họ đọc lời
của ông trong các hội đường mỗi
ngày Sa-bát” (Cv 15,21). Ngày nay do không còn nguy
cơ phân hóa giữa các tín hữu gốc
Do thái và gốc lương dân như thời sơ
khai, nên Hội Thánh không cấm các tín hữu ăn thịt
và uống máu huyết thú vật theo Luật Mô-sê nữa.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Tôi là Bánh Hằng Sống
từ trời xuống. Ai ăn Bánh này
sẽ được sống muôn đời.
Và Bánh tôi sẽ ban tặng chính là
Thịt tôi đây, để cho thế gian
được sống” (Ga 6,51).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) CHIẾC
NHẪN- KỶ VẬT CỦA TÌNH YÊU.
Có một đôi vợ
chồng trẻ kia mới lấy nhau
được hơn một năm. Trong thời
gian đó họ đã sống rất hạnh
phúc. Mỗi buổi sáng trước khi
rời nhà đi làm, và buổi chiều khi
vừa trở về ngôi nhà thân thương, người
chồng không bao giờ quên trao cho vợ một
cử chỉ âu yếm và một lời
nói thân thương. Nhờ đó tình yêu
giữa hai vợ chồng ngày thêm nồng
thắm. Nhưng rồi hạnh phúc của họ
đã bị đe dọa khi một hôm
người chồng bị trúng mưa trên
đường từ xưởng làm về
nhà. Anh bị cảm nặng phải nằm
liệt giường nhiều ngày và trong thời
gian này anh đã được chị vợ
tận tình săn sóc. Đẩu tiên, anh
được vợ mang đến bệnh viện
và được bác sĩ chẩn
đoán bị sưng màng phổi. Dù đã
được các bác sĩ tận tình
cứu chữa, nhưng bệnh của anh ngày thêm
trầm trọng. Sau đó, bệnh viện kết luận
anh đã bị ung thư màng phổi ác tính
thời kỳ thứ ba và vô phương cứu
chữa. Khi sắp chết, anh chồng đã cầm
tay vợ và thều thào nói: “Em yêu quí !
Có lẽ sắp tới giờ Chúa
gọi anh về rồi. Anh đã chuẩn bị
và sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa
muốn. Anh chỉ tiếc một điều là không
còn được tiếp tục sống bên em
nữa. Trước khi đi xa, anh không có
gì trối lại cho em ngoài chiếc nhẫn
mà cách đây hơn một năm, hai vợ
chồng mình đã tặng cho nhau khi kết
ước trước bàn thờ Chúa.
Bây giờ anh xin tặng lại chiếc nhẫn
kỷ vật này cho em, để mỗi lần
nhìn thấy nó, em biết rằng anh vẫn
luôn ở bên em và hằng cầu Chúa ban cho em an
lành hạnh phúc”. Nói xong, anh tháo chiếc
nhẫn đang đeo ở ngón tay ra và âu yếm
xỏ vào tay vợ, giống như
trước đây anh đã làm trong thánh
lễ hôn phối của hai người. Sau khi
chết, anh được an táng trong một nghĩa
trang gần nhà. Từ ngày đó, mỗi
ngày người ta đều thấy một
phụ nữ còn rất trẻ, đầu
chít khăn tang, tay cầm bó bông đi vào
nghĩa trang. Chị đứng hằng
giờ trước ngôi mộ cỏ mọc chưa
xanh của chồng, để cầu nguyện cho anh. Tay chị đeo hai chiếc nhẫn: Một chiếc
của ngày thành hôn và chiếc kia là kỷ
vật của người chồng quá cố
đã để lại cho chị khi sắp
từ giã cuộc đời.
2) CẬU
BÉ MÁC-SEN-LI-NÔ SẴN SÀNG CHẾT ĐỂ ĐƯỢC GẶP
MẸ ĐÃ QUA ĐỜI:
Tại Tây Ban Nha có một câu chuyện
về một cậu bé tên là MAR-XEL-LI-NO. Mẹ cậu
đã chết đang khi sinh cậu, và do không còn
người thân nên cậu đã bị người ta mang
đến đặt trước cửa một tu
viện, và cậu đã được các tu sĩ nhận
nuôi dưỡng.
Cậu bé vốn tính hiếu
động, nên thày đầu bếp đã cấm cậu không
được leo trèo hoặc lai vãng đến những
nơi không được thầy cho phép. Nhưng vì tính tò
mò, một ngày kia Marcellino đã lén leo lên gác lẽ ra cậu
không được vào. Cậu rất ngạc nhiên nhìn thấy
một người khổng lồ đang bị treo trên
cây thập giá. Cho rằng người ấy đang bị
đói, nên đêm hôm ấy Marcellino lén vào bếp trộm mấy
chiếc bánh mang lên cho ông. Người khổng lồ đã
đưa tay ra nhận bánh và mỉm cười cám ơn cậu.
Từ đó, ngày nào cậu cũng lén mang bánh lên cho
người ấy. Người này không ai khác hơn chính là
Chúa Giê-su chịu treo trên thập giá. Một hôm,
Người đã âu yếm ôm cậu bé và hỏi:
- Con thích nhất điều gì trên
trần gian này?
Cậu mau mắn thưa:
- Con muốn được gặp
mẹ ruột của con.
Chúa liền nói với cậu:
- Con sẽ được gặp
mẹ con sớm nếu con bằng lòng chết đi.
Hôm sau các tu sĩ đã tìm thấy
cậu bé nằm chết như đang ngủ say trong vòng
tay thương mến của Chúa Giê-su trên cây thập giá.
Chính vì yêu mẹ và muốn sớm được gặp mẹ,
mà Marcellino đã sẵn sàng chịu chết.
Đức Giêsu cũng vì yêu
thương loài người chúng ta nên đã sẵn lòng
chịu chết để chúng ta được sống.
Người còn lập bí tích Thánh Thể để được
ở mãi với loài người chúng ta, trở thành lương
thực thiêng liêng nuôi dưỡng đức tin của
chúng ta, hầu ai đón nhận Người sẽ
được sống muôn đời như Người đã
hứa: “Tôi là Bánh Hằng Sống từ
trời xuống. Ai ăn Bánh này, sẽ
được sống muôn đời. Và
Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là Thịt
tôi đây, để cho thế gian được
sống”.
3. SUY
NIỆM:
Hơn hai ngàn năm
trước đây, Chúa Giê-su đã thiết
lập bí tích Thánh Thể trong sự cảm thông và hiệp
nhất yêu thương như Tin Mừng Gio-an viết:
Ý thức rằng “Giờ đã
đến, Giờ Con Người phải bỏ
thế gian mà về với Chúa Cha.
Người vẫn yêu thương những kẻ
thuộc về mình còn đang ở thế
gian, và Người đã yêu thương
họ đến cùng” (Ga 13,1). Người
đã lập phép Thánh Thể trong khung cảnh
một bữa ăn, để lại cho Hội Thánh
dấu chỉ của một tình yêu vô cùng
lớn lao là Mình Máu Thánh
Người dưới hình bánh
rượu, để nên của ăn của uống
cho các tín hữu, hầu ban cho họ sự sống
đời đời.
1) BÍ TÍCH
THÁNH THỂ - BỮA TIỆC THÁNH YÊU THƯƠNG:
Tin Mừng cho thấy việc chuẩn
bị thiết lập và cử hành bí tích Thánh Thể của
Đức Giê-su đều diễn ra trong khung cảnh bữa
ăn yêu thương như sau:
- Bữa tiệc cưới tại thành
Ca-na: Trong tiệc cưới này, Đức Giê-su đã thể
hiện tình thương đối với đôi tân hôn, khi
nể lời Đức Ma-ri-a cầu bầu, Người
đã làm phép lạ biến nước lã trở thành
rượu ngon giúp đôi tân hôn, và củng cố đức
tin của các môn đệ mới đi theo Người.
- Bữa ăn cho đám đông nơi hoang
địa: Cảm thông với đám đông dân chúng bị
đói khi theo Người vào hoang địa nghe giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su đã làm phép lạ nhân năm
chiếc bánh và hai con cá ra nhiều để nuôi năm ngàn
người đàn ông, không kể đàn bà con trẻ được
ăn no và còn dư mười hai giỏ đầy bánh còn
lại (x. Mt 14,14-21). Sau đó, Đức Giê-su đã giảng
về bí tích Thánh Thể để ban thịt máu mình làm của
ăn của uống hầu mang lại sự sống
đời đời cho các tín hữu: “Thịt Tôi thật
là của ăn, Máu Tôi thật là của uống. Ai ăn
thịt Tôi và uống máu Tôi thì sẽ có sự sống
đời đời. Và Tôi, Tôi sẽ cho họ sống
lại trong ngày tận thế” (Ga 6,55-56).
- Bữa Tiệc Ly chiều thứ Năm
Tuần Thánh: Đức Giê-su đã yêu thương các môn
đệ đến cùng nên Người đã thiết
lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn lễ
Vượt Qua với các môn đệ, trước khi
từ biệt các ông để chịu khổ nạn
như sau: “Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su
cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ
ra, trao cho môn đệ và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn,
đây là mình Thầy’. Rồi Người
cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn
đệ và nói: ‘Tất cả anh em hãy uống
chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ
ra cho muôn người được tha tội’ (Mt 26,26-28).
- Bữa tối của hai môn
đệ làng Em-mau: Chúa Phục Sinh dưới dáng vẻ
như một khách bộ hành đi chung đường với
hai môn đệ đang trong tâm trạng chán nản thất
vọng. Người đã dùng Lời Kinh Thánh để
cho các ông hiểu về ý nghĩa cái chết và sự
phục sinh của Đấng Thiên Sai. Rồi “khi ngồi
đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ.
Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra
Người, nhưng Người lại biến mất”
(Lc 24,30-31). Chính trong khung cảnh bữa ăn yêu thương
kèm theo cử chỉ và lời đọc Người
đã từng làm, khiến mắt hai môn đệ mở ra
và nhận biết người khách bộ hành chính là
Thầy Giê-su đã từ cõi chết sống lại.
2) TIN HAY
KHÔNG TIN MẦU NHIỆM TRONG BÍ TÍCH THÁNH THỂ:
Sau bài giảng về Bánh
Hằng Sống, mặc dù biết đám
đông đang xầm xì phản đối, vì cho rằng
đây là một điều vô lý không thể chấp
nhận, nhưng Đức Giê-su vẫn cương
quyết khẳng định thêm về mầu
nhiệm này (x. Ga 6,60). Về phần các môn
đệ sau khi hiểu Đức Giê-su muốn lập
bí tích Thánh Thể để biến Thịt Máu Mình làm
của ăn của uống, nên đã bảo nhau rằng: “Làm
sao ông này có thể lấy Thịt mình mà cho
chúng ta ăn được?”. Sau đó, một số đông
môn đệ đã bỏ không còn đi theo làm môn
đệ Người nữa (x. Ga 6,66). Đức
Giê-su cho biết: để tin vào mầu nhiệm này, đòi
người ta phải được Chúa Cha ban
ơn (x. Ga 6,65). Sau đó, Đức Giê-su
đã hỏi nhóm 12 Tông đồ về quyết
định tin hay không tin, chọn bỏ đi hay ở
lại với Người. Ông Phê-rô đã đại
diện Nhóm Mười Hai thưa rằng: “Bỏ
Thầy thì chúng con biết đến với
ai ? Thầy mới có những lời
đem lại sự sống đời
đời. Phần chúng con, chúng con đã
tin và nhận biết: Chính Thầy là
Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Như
vậy, trước mầu nhiệm này, người ta
không thể cảm nghiệm bằng giác quan, mà phải nhờ
ơn Thiên Chúa ban và thành tâm tin nhận.
3) CẦN
THAM DỰ BÍ TÍCH THÁNH THỂ VỚI TÌNH YÊU THƯƠNG
HIỆP NHẤT:
Thánh Phao-lô dạy về thái độ phải
có của các tín hữu khi tham dự Bữa Tiệc Thánh
Thể như sau: “Bởi vì chỉ có một tấm Bánh và
tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy
nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân
thể” (1 Cr 10,17). Do đó, khi đến dự lễ, chúng
ta cần có tình yêu thể hiện qua thái độ cảm
thông và hiệp nhất, noi gương cộng đoàn Hội
Thánh sơ khai tại Giê-ru-sa-lem như sau: “Tất cả
các tín hữu hợp nhất với nhau, và để
mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất
đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi
người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm
nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền
Thờ, Khi làm lễ Bẻ Bánh tại tư gia, họ dùng
bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca
tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương
mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những
người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
4) THAM
DỰ THÁNH LỄ THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA?
- “Phúc cho ai được mời
đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Cần dọn mình
lên rước lễ mỗi lần tham dự thánh lễ,
vì chẳng có ai đi dự tiệc mà lại không xem
người khác ăn, còn mình thì không ăn uống gì ?
Cũng cần kéo dài thánh lễ giữa đời
thường, như Đức Cha HELDER CAMERA đã nói: “Mỗi
sáng, tôi được nuôi dưỡng bằng Đức
Ki-tô trong bí tích Thánh Thể, rồi suốt ngày, tôi lại gặp
gỡ Đức Ki-tô nơi tha nhân. Vì tôi gặp cũng
một Đức Ki-tô trên bàn thờ và ngoài
đường phố”. Như vậy: Hiệp nhất
với Chúa Giê-su trong thánh lễ phải dẫn chúng ta
đến chỗ hiệp nhất với Người đang
hiện thân nơi những người đang sống bên chúng
ta, nhất là những người nghèo đói bệnh
tật và bất hạnh (x.Mt 25).
- Hiệp nhất với Chúa Giê-su Thánh
Thể cũng đòi hiệp thông với tha nhân, đòi
chúng ta noi gương Chúa quên mình và khiêm tốn phục
vụ tha nhân, làm cho tha nhân được hạnh phúc.
- Một khi được nuôi
dưỡng bằng Mình Máu Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng
ta sẽ ý thức bổn phận chia sẻ cơm áo cho những
người nghèo đói, tích cực góp phần cải
thiện xã hội là gia đình, khu xóm, trường
học, nhà máy, công sở… ngày một an toàn sạch
đẹp hơn, công bình nhân ái hơn, sớm trở thành “Trời
Mới Đất Mới” được sách Khải
Huyền tiên báo: Bấy giờ “Thiên Chúa sẽ lau sạch
nước mắt của họ. Sẽ không còn sự
chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ
nữa, vì những điều cũ đã biến mất”
(Kh 21,4).
4.
THẢO LUẬN: Để đáp lại tình yêu
tột cùng của Đức Giê-su khi lập
bí tích Thánh Thể, mỗi tín hữu
chúng ta cần dự lễ hay dự các giờ
chầu Thánh Thể như thế nào… ?
5.CẦU
NGUYỆN:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con muốn
ngợi ca lòng từ bi nhân hậu và
đầy yêu thương của Chúa khi thiết
lập bí tích Thánh Thể. Nhờ bí
tích này, Chúa ban Mình Máu Chúa làm
của ăn của uống thiêng liêng nuôi dưỡng
đức tin của chúng con. Cũng nhờ
bí tích ấy, Chúa giúp chúng con
tưởng niệm về mầu nhiệm Tử
Nạn và Phục Sinh của Chúa, để
được sống đời đời.
- Lạy Chúa Giê-su. Bàn tiệc
Thánh Thể do Chúa thiết lập và
mời chúng con tham dự nhằm biểu
lộ tình yêu thương và sự hiệp
nhất cộng đoàn. Chúa muốn chúng con
phải tránh thói ích kỷ và những
việc làm gây chia rẽ nội bộ, như Tông
đồ Phao-lô đã quở trách giáo
đoàn Cô-rin-thô như sau: “Trước tiên tôi nghe
rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ
nhau… Khi anh em họp nhau, thì không còn phải là
ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy,
mỗi người lo ăn bữa riêng của mình
trước. Và như thế kẻ thì bị
đói, người lại no say ! Anh em không có
nhà để ăn uống sao ? Hay anh em khinh Hội
Thánh của Thiên Chúa và làm nhục
những người không có của ?… Cho nên
thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa,
anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn
ở nhà, kẻo anh em đến họp mà
hóa ra để bị kết án !” (1 Cr
11,18-22.33-34). Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết
hiệp thông với tha nhân mỗi khi tham dự
thánh lễ: Cho chúng con biết thể hiện
tình bác ái huynh đệ bằng việc
vào ngồi trong nhà thờ thay vì
đứng ở ngoài sân; Cho chúng con
biết mở miệng thưa kinh chung với
cộng đoàn. Xin cho chúng con luôn biết dấn
thân, sẵn sàng đi bước trước bắt
chuyện làm quen với những người
lạ, sẵn sàng nhường chỗ tốt cho
những người già cả tật
nguyền… để Thánh Lễ trở thành
cơ hội giúp chúng con thể hiện tình
yêu thương hiệp nhất với Chúa và hiệp
thông với tha nhân.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH -
HHTM
|