“Thiên Chúa yêu đến nỗi..." --- Chú
giải của Noel Quesson
Phải mất ba
thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới
định nghĩa chính xác Ba Ngôi. Nhưng
ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã
được đem đến trong Tin Mừng,
đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan.
Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà chúng ta
đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn,
thật sự đã làm cho chúng ta khám phá một điều
gì đó chủ yếu: “tranh luận" hẳn là không
đi tới đâu, phải đi theo
Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi
trường trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10)... Tuy nhiên ông
không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không
phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ
mà một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình
yêu! Và tình yêu này mang một khuôn mặt: Đức Giêsu trên
thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối
mặt với cảnh tượng ấy của tình yêu
điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch
trên đồi Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh
Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu
“được gương cao” khỏi mặt đất
trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói
với chúng ta sự suy niệm ấy. Đồng
thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính
của Đức Giêsu.
“Thiên Chúa yêu
đến nỗi..."
Trước khi
đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ
ấy thấm vào người tôi. Vậy
ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu
sẽ làm những chuyện điên rồ người ta
đã đoán ra điều đó trong trạng từ
"đến nỗi"...
Israel
biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu
ước là một chung cư về
điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta
nghe lại mặc khải với Môsê trong sa mạc
Sinai:"Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và
từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ Kinh Thánh
đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không
một ai có thể đoán được tình yêu ấy
đi tới mức nào?
"Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi..."
Từ thế gian mà
trong tiếng Hy Lạp là “kosmos", trong Tin Mừng Thánh
Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần
biết rằng thế gian, toàn vũ trụ
được Thiên Chúa yêu thương. Thiên
Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra.
Người ta thương yêu cái gì mình đã
làm ra. Nhưng cần biết rằng
Thiên Chúa yêu thương mọi người. Thiên Chúa
đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt những khuôn
mặt cụ thể được yêu thương
hoặc không... trên những từ ấy. Thiên Chúa
đã yêu thương anh X. đến nỗi... Thiên Chúa yêu thương chị Y đến
nỗi.
'Thiên Chúa yêu thế
gian đến nối đã ban..."
Hai động
từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định
trong ngôn ngữ Hy lạp và dịch thì quá khứ trong
tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu” và “đã
ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là
một hành động chính xác, có ngày giờ nơi
chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con
của Bà Maria, con người thật đã can thiệp vào
lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong
một xã hội của Đế quốc La mã đồng
thời đó cũng là một biến cố của hoàn
vũ đã biến đổi triệt để lịch
sử của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không
phải là một chuỗi các ý tưởng, nhưng là
một chuỗi "sự kiện": Thiên Chúa đã sáng
thế, Đức Giêsu đã được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người
đã đau khổ, đã chết đã sống lại...
Phụng vụ
của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý
tưởng: Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh
đệ và cả đức tin. Cách nói: "lễ
đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học
thuyết, là một "tường thuật kể
lại các biến cố... mà tác giả là Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa là "chủ thể" của hành
động: Người yêu... Người ban...
“Người đã
ban Con Một...”
Nếu đọc
lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ
nghĩ đến sự Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban
cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính
từ nhỏ: Con "Một" tính từ ấy xem ra có
thể tầm thường với bất cứ
người nào không biết Kinh Thánh. Vả lại,
đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con,
Con Một) nhắc đến một đoạn văn
của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi
người: vị đại tổ phụ sáng lập
đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế
con trai, con duy nhất của ông (St 22,2-22,16). Đối
với Gioan điều này ám chỉ đến sự
“tận hiến” trên đồi Golgotha,
chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu
trước, Gioan đã nói với chúng ta rằng: “Con
Người phải được giương lên như
con rắn đồng trong sa mạc” (Ga 3,14).
Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con
Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta” ( Rm
8,32). Tình yêu ấy là vô cùng tận! sự
điên rồ của tình yêu.
“Để ai tin vào
con của người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời”.
Thiên Chúa đã
khởi xướng trước, Người đã “yêu
thương đầu tiên”. Mọi sáng kiến đến từ
phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ,
để có tình yêu, nếu chỉ có lời tuyên bố, bày
tỏ, trước những bước, dấu chỉ
từ một trong hai phía chưa đủ … mà phải có
sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, …
đức tin là lời đáp lại của con
người đối với lời tỏ bày tình yêu
của Thiên Chúa: người ta trao đức tin cho
người khác, người ta làm cho người ấy
tin tưởng, tín thác cho nhau, người ta
được “đính hôn”!
Cái được
mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng:
vấn đề là chết hay sống: “ai tin thì khỏi
phải chết nhưng được sống muôn đời”.
Đó là một song luận khắc nghiệt: hoặc là
…hoặc là.. đó là
một chọn lựa quyết định: trong
trường hợp này người ta không sống, trong
trường hợp kia người ta được
sống… không có con đường trung bình mà là sự phân
đôi triệt để khốc liệt. Hoặc
người ta chấp nhận “sự ban cho của Thiên
Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là
đặc tính của Thiên Chúa hoặc người ta ở
lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải
chết. Không thể có thái độ nghiêng ngả
quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban
cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm
chúng ta trở thành “Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và
“không” (nn.. non) ông nước đôi đó nói “có” khi bắt
đầu nói “không”.
“Quả vậy Thiên
Chúa sai con của Người đến thế gian không
phải để lên án thế gian, nhưng để
thế gian nhờ con của Người mà được
cứu độ”.
Tư tưởng
này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do
Thái cùng thời với Đức Giêsu ,
người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ
đến tiêu diệt thế giới tội lỗi. Các
thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của
phái Manikêu: con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái
của bóng tối trong một cuộc chiến đấu
một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan
Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng
chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét
xử (Mt 3,10-12).
Nhưng quan
điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân
bình hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan,
bịt mắt trước sự xấu ác và không nghe
thấy khát vọng bao la về một “thế giới
tốt đẹp hơn”… cũng không phải là quan
điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế
giới thì xấu xa… nhưng là một quan điểm
“cứu độ” thừa nhận sự xấu ác của
thế gian nhưng không phải lên án nó, nhưng để
cứu nó! Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt
vời!
Còn chúng ta thì sao? có
phải chúng ta là những môn đệ của Đức
Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương
thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa
là bằng sự đấu tranh chống lại
điều ác và tội lỗi của thế gian
để cứu độ nó. Tình yêu
thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không?
nghĩa là trước hết phải
thực hiện và sáng suốt trên những khuyết
điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả
chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta
cũng phải có đủ lòng nhân hậu để
cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho
họ cơ hội để đổi mới…
Tôi còn phải
cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán
xét’ mà hãy ‘cứu’.
“Ai tin vào Con của Người
thì không bị lên án…”
Đối với
Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể
sự phán xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và
đặt vào đôi tay của con
người: chính con người tự phán xét mình. Và
Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét
ấy: “ai tin là người được cứu, còn ai
không muốn tin đã bị lên án
rồi…”
“Nhưng kẻ không
tin, thì bị lên án rồi”.
Chúng ta thấy
những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta
nghĩ đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà
con hoặc trong chính gia đình chúng ta, và trong thế
giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn
toàn không có được khả năng biết
Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ
ra khỏi Tin Mừng các công thức căn bản ở
đó con người bị thúc bách phải chọn lựa
“theo” hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có
sự phân biệt chủ yếu:
1. Khi gởi
đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng
đức tin, thì lời cảnh báo nghiêm khắc ấy
tức là không được chối bỏ đức tin
mà mình đã tuyên xưng là một lời mời gọi
không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy
bằng cách mỗi ngày canh tân sự chọn lựa
sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là
"phó dâng đời sống mình bởi tình yêu như
Người!".
2. Về phần
mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội
chọn lựa Đức Giêsu một cách thật sự có
ý thức, cá nhân là trưởng thành... thì điều mà
chúng ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai
Con của Người đến thế gian không phải
để lên án thế gian mà để cứu độ
nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng nhiều người
trong số những người thực tế 'không theo
Đức Giêsu cũng đã theo Người dù họ không
biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho
họ) bằng cách sống làm người của họ
"theo Đức Giêsu Kitô" nghĩa là "phó dâng
đời sống mình bởi tình yêu như
Người!"
"Vì đã không tin
vào danh của Con Một Thiên Chúa"
Và một lần
nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn
thiết như thế nào... ngay từ bây giờ. Nhưng trong một
đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói
rằng một "kỳ hạn của ân sủng"
sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ
đến ngày sau hết mà "lời của Đức
Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối
Người (Ga 12,47-50). Điều đó không loại
bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay... nhưng
tất cả đời sống của chúng ta mỗi ngày
là sự phán xét của chúng ta...
Để kết
thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao
trang Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa
Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một
vấn đề mà người ta đề cập như
một sự trình bày lý thuyết và trừu tượng...
đó là một thực tại của tình yêu người
ta bước vào thực tại ấy để sống
tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong
Đức Giêsu.
|