BÁNH
TRƯỜNG SINH
(Lễ
Mình Máu Thánh Chúa, năm A)
Thánh
Thể liên quan đức tin, bởi vì
“đây là mầu nhiệm đức
tin”. Giáo Hội đã xác định
như vậy, và mỗi khi lãnh nhận
Thánh Thể, mỗi chúng ta có trách
nhiệm “loan truyền Chúa chịu chết
và tuyên xưng Chúa sống lại cho
tới khi Chúa đến”.![](B%C3%81NH%20TR%C6%AF%E1%BB%9CNG%20SINH_html_4bfb7e36.jpg)
Có
rất nhiều loại bánh. Mặn có,
ngọt có, dẻo có, cứng có,…
và người ta có cả bánh chay
nữa. Thích gì ăn nấy, đủ
loại có thể tự chọn theo sở
thích. Bánh là một loại thực
phẩm, ăn để no một thời gian rồi
lại cần ăn nữa, thậm chí mỗi
ngày người ta còn phải ăn vài
lần mới ổn cái bụng. Và rồi
ai cũng phải chết, dù no hay đói,
dù ăn bất cứ loại thực phẩm
nào.
Nhưng
có một loại bánh đặc biệt
được mệnh danh là Bánh Trường
Sinh, đó là Thánh Thể. Chúa
Giêsu đã xác định: “Chính
tôi là bánh trường sinh. Ai đến
với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!”
(Ga 6:35). Thật vậy, chị Marthe Robin (1902-1981,
người Pháp) là người chứng
tỏ điều Chúa Giêsu đã nói.
Chị Marthe ốm yếu từ nhỏ, đến
năm 28 tuổi thì bị liệt, thi thoảng
chị được Chúa Giêsu hiện ra,
chị không thể ăn hoặc uống được
bất cứ thứ gì, chị chỉ sống
nhờ Thánh Thể trong suốt 51 năm. Giáo
Hội đã tôn phong chị là bậc
đáng kính vào ngày 7-11-2014.
Thánh
Thể là bằng chứng hùng hồn về
Lòng Chúa Thương Xót, và liên
quan đức tin, nhưng đức tin lại liên
quan cách thể hiện yêu thương,
liên
quan
cuộc sống và con người – đặc
biệt là những con người hèn mọn.
Mẹ Thánh Teresa Calcutta
lý giải: “Bạn
không thể thấy Chúa Giêsu trong người
nghèo nếu bạn không thấy Ngài
trong Thánh Thể”.
Vô hình mà hữu hình. Rất thực
tế, rất cụ thể!
Cuộc
đời được gọi là cuộc
sống. Sự sống liên quan việc ăn
uống, liên quan ẩm thực. Ăn để
sống, chứ không sống để ăn.
Lương thực là một phần thiết
yếu để duy trì sự sống. Tuy
nhiên, ngày nay người ta phải cảnh
giác cao độ vì các loại thực
phẩm nhiễm độc vì các hóa
chất, đặc biệt là thực phẩm
của Trung cộng. Do đó, người ta
càng văn minh lại càng đáng quan
ngại về thực phẩm – kể cả
các dụng cụ, nghĩa là người
ta càng cần có sự an toàn.
Theo
dòng đời, ai cũng biết rằng lương
thực và thực phẩm rất cần, người
ta cũng chỉ vì “miếng ăn” mà
không ngừng gây chiến tranh. Các dạng
tội phạm cũng vì đó mà leo
thang. Để hỗ trợ dân nghèo vì
nhân đạo, Liên Hiệp Quốc đã
thành lập tổ chức FAO (Food and Agriculture
Organization – Tổ chức Lương Nông)
vào ngày 16-10-1945 tại Canada. Tổ chức
này nhằm ba mục đích: (1) Nâng
cao mức sống và mức dinh dưỡng
của nhân dân các nước thành
viên; (2) Nâng cao hiệu quả sản xuất
lương thực và nông sản; (3) Góp
phần vào việc phát triển kinh tế
thế giới và giải phóng nhân dân
khỏi nạn đói. Trên logo của FAO
có dòng chữ bằng La ngữ: “Fiat
Panis – Để Có Lương Thực”
(Anh ngữ: Let There Be Bread).![](B%C3%81NH%20TR%C6%AF%E1%BB%9CNG%20SINH_html_m51e02eec.jpg)
Ngày
xưa, chính Chúa Giêsu đã vì
chạnh lòng thương, sợ người
ta đói khát nên Ngài đã
hai lần làm phép lạ hóa bánh
ra nhiều cho đám người mê Ngài
nói mà quên cả cái bụng. Các
thánh sử đã ghi lại phép lạ
mà Chúa Giêsu đã làm bằng
cách hóa bánh ra nhiều: lần một
(Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14), với 5 cái
bánh và 2 con cá, Ngài đã cho
mọi người no nê, số thực khách
lên tới 5.000 người, chưa kể phụ
nữ và trẻ em, phần dư còn thu
được 12 thúng đầy; và lần
hai (Mt 15:32-39; Mc 8:1-10), với 7 cái bánh và
vài con cá, Ngài cũng đã cho
mọi người no nê, phần dư còn
thu được 7 thúng đầy. Đó
là ngụ ý đề cập Bí tích
Thánh Thể mà Chúa Giêsu thiết
lập trong buổi Dạ Tiệc Vượt Qua,
trước khi Ngài chịu tử hình vì
tội lỗi của chúng ta. Máu và
thịt không thể tách rời. Chính
máu và thịt là dấu chứng tỏ
của sự sống.
Đối
với phàm nhân, chuyện ăn uống là
một trong tứ khoái của con người,
ăn là hành động đứng đầu,
và có thể gọi là “đệ
nhất khoái”. Tuy nhiên, miếng ăn
cũng có thể làm cho người ta vinh
hoặc nhục. Có lẽ vì vậy, nhất
là với người có lòng tự
trọng, tục ngữ Việt Nam so sánh:
“Tiếng
chào cao hơn mâm cỗ”.
Ăn cũng có nghệ thuật ăn, không
phải cứ cho vô miệng là xong. Không
chỉ vậy, ăn không chỉ để no
bụng mà còn cần ngon miệng: Đồ
ăn ngon, chỗ ăn ngon, và người ăn
(với mình) cũng ngon. Thế mới đủ
“độ” ngon. Có cả chuỗi nghệ
thuật liên quan chứ không đơn giản
đâu!
Quả
thật, chuyện ăn uống cũng đủ
kiểu và đủ mức, nhiêu khê
lắm! Ngày xưa, khi dân Chúa đi
qua sa mạc suốt 40 năm để tới Miền
Đất Hứa, lương thực duy nhất
là man-na, một món cứ ăn mãi
nên dân chán ngán. Chán lắm!
Chán ngán đồ ăn nhớ không
mùi vị nên thèm đồ ăn ngon
ngày xưa thường ăn, đám dân
ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt
đầu cảm thấy không chịu nổi,
họ và cả con cái Ít-ra-en đều
khóc lóc mà nói: “Ai
sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây?
Nhớ thuở nào ta ăn cá bên Ai-cập
mà không phải trả tiền, rồi nào
dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào
hành, nào tỏi. Còn bây giờ đời
ta tàn rồi; mọi thứ đó hết
sạch, chỉ còn thấy man-na thôi”
(Ds 11:4-6). Mô-sê cũng “nhức đầu”
lắm, vì họ đòi thịt thì
lấy đâu giữa sa mạc khô cằn
và hoang vu như vậy chứ? Căng dữ
nghen!
Và
Kinh Thánh cho biết rằng man-na là loại
“bánh từ trời”, nhìn như
hạt ngò và trông như nhựa hương.
Lạ lắm. Dân cứ việc chia nhau đi
lượm, cho vào cối xay hoặc cối
giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ
vào nồi nấu bánh, và mùi vị
của nó như mùi vị bánh chiên
dầu. Đêm về, sương rơi trên
doanh trại, và man-na cũng rơi xuống (Ds
11:7-9). Cái món man-na lạ nhưng ăn hết
ngày này sang tháng nọ thì chịu
hết nổi rồi! Mô-sê “cầu
cứu” Chúa. Và rồi Ngài cho gió
lùa chim cút tới, lớp chim cút dày
tới cả mét, dân cứ việc lượm
mà xơi cho đã cơn thèm. Nhưng
ai cũng tham nên lượm nhiều để
dành, thế nên Chúa nổi trận lôi
đình (Ds 11:31-33). Đúng là “tham
thì thâm”. Đúng là “thần
khẩu hại xác phàm”, cái miệng
hại cái thân rõ ràng. Có ăn
mà không khéo cũng khổ!
Ngày
nay chúng ta cũng không hơn gì dân
ngày xưa, thế nên Thiên Chúa nổi
cơn thịnh nộ vì chúng ta sai trái,
đã vậy còn cứng đầu cứng
cổ, ngang ngược và bướng bỉnh.
Được ăn chưa biết cảm ơn
lại dám nổi loạn. Loài người
vô ơn bạc nghĩa hết sức! Thế
nhưng Ngài vẫn luôn nhân từ, vẫn
tha thiết mời gọi tất cả chúng
ta: “Đến
cả đi, hỡi những người đang
khát, nước đã sẵn đây!
Dầu không có tiền bạc, cứ đến
mua mà dùng; đến mua rượu mua
sữa, không phải trả đồng nào”
(Is 55:1). Và đó cũng là “lời
mời gọi cuối cùng”.
Kinh
Thánh nhắc nhở: “Anh
em phải nhớ lại tất cả con đường
mà Đức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, đã dẫn anh em đi suốt bốn
mươi năm nay trong sa mạc, để bắt
anh em phải cùng cực; như vậy Người
thử thách anh em cho biết lòng dạ anh
em, xem anh em có giữ các mệnh lệnh
của Người hay không. Người đã
bắt anh em phải cùng cực, phải đói,
rồi đã cho anh em ăn man-na là của
ăn anh em chưa từng biết và cha ông
anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu
làm cho anh em nhận biết rằng người
ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng
Đức Chúa phán ra”
(Ðnl 8:2-3). Chính Đức Kitô cũng đã
từng nhắc nhở y như vậy (Mt 4:4; Lc
4:4). Xác cần ăn thì hồn cũng cần
ăn, có vậy mới sống và phát
triển toàn diện.
Kinh
Thánh tiếp tục giải thích và
động viên: “Thiên
Chúa của anh em, Đấng đã đưa
anh em ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh
nô lệ. Người đã dẫn anh em
đi trong sa mạc mênh mông khủng khiếp,
đầy rắn lửa và bọ cạp,
trong miền đất khô cằn không giọt
nước. Người đã khiến nước
từ tảng đá hoa cương chảy ra
cho anh em uống. Trong sa mạc, Người đã
cho anh em ăn man-na, thức ăn mà cha ông
anh em chưa từng biết, để bắt anh
em phải cùng cực và thử thách
anh em, hầu làm cho anh em được hạnh
phúc trong tương lai”
(Ðnl 8:14-16). Thế nhưng trái tim phàm
nhân bằng đá hoặc đã xơ
cứng, nghe xong rồi quên, hứa xong rồi
thôi, cứ tưởng mình là “cái
rốn của vũ trụ”, tự nhận
mình là “số dzách”, cho nên
lúc nào cũng chỉ chực nổi loạn.
Lô-gích thôi. Đó là chúng
ta có “gen kiêu ngạo” của Ông
Bà Nguyên Tổ!
Ôi,
phàm nhân chúng ta dễ vô ơn lắm,
dù có lãnh nhận đại ân.
Và rồi chúng ta cũng rất “chảnh”,
luôn nghĩ mình “ngon lành”, tự
nhận mình là ân nhân, mặc dù
chúng ta chỉ cho người khác những
thứ thừa thãi – còn tệ hơn
bố thí (thay vì vứt bỏ í mà)!
Do đó, tác giả Thánh Vịnh nhắc
khéo chúng ta bằng cách mời gọi:
“Giêrusalem
hỡi, nào tôn vinh Chúa! Này Sion,
hãy ca ngợi Thiên Chúa của ngươi!
Then cửa nhà ngươi, Chúa làm cho
thêm chắc, con cái trong thành, Người
giáng phúc thi ân. Cõi biên cương,
Người thiết lập hoà bình, và
cho ngươi no đầy lúa mì tinh hảo”
(Tv 147:12-14).
Dân
tộc Ít-ra-en là Dân Riêng của
Chúa. Ít-ra-en là hiện thân của
chúng ta, vì chúng ta cũng là Dân
Thánh của Ngài. Chúng ta cũng được
“đặc cách” mà vẫn vô
ơn. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh
cho biết: “Chúa bày tỏ lời
Người cho nhà Gia-cóp, chiếu chỉ
luật điều cho Ít-ra-en. Chúa không
đối xử với dân nào như vậy,
không cho họ biết những điều luật
của Người” (Tv 147:19-20).
Với
lòng đại lượng bao la, Thiên Chúa
ban tặng chúng ta mọi thứ, đặc
biệt là chính Con Một Yêu Dấu
của Ngài. Đó là hệ quả
của “khối tình si” của Thiên
Chúa: “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời”
(Ga 3:16). Vâng, Ngài yêu thương chúng
ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân
kia mà! (x. Rm 5:8). Thánh Phaolô đặt
vấn đề: “Khi
ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là
dự phần vào Máu Đức Kitô
ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh,
đó chẳng phải là dự phần
vào Thân Thể Người sao? Bởi vì
chỉ có một tấm Bánh, và tất
cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh
ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta
cũng chỉ là một thân thể”
(1
Cr 10:16-17). Và đó cũng là lời
nhắc nhở chúng ta phải biết yêu
thương nhau – bằng mọi động
thái, bằng cả con người của chúng
ta. Chữ MỘT rất quan trọng!
Khi
Chúa Giêsu đi rao giảng khắp nơi,
có lần Ngài nói với người
Do Thái: “Tôi
là bánh hằng sống từ trời
xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được
sống muôn đời. Và bánh tôi
sẽ ban tặng, chính là thịt tôi
đây, để cho thế gian được
sống”
(Ga 6:51). Có vẻ họ “chói tai”
nên họ liền tranh luận sôi nổi
với nhau. Và họ đặt vấn đề:
“Làm
sao ông này có thể cho chúng ta ăn
thịt ông ta được?”
(Ga 6:52).
Với
trí tuệ loài người, tất nhiên
làm sao họ hiểu được. Nếu có
chúng ta trực tiếp nghe Chúa Giêsu
nói lúc đó, chắc chắn chúng
ta cũng phản đối tới cùng chứ
chẳng vừa đâu. Tất nhiên Chúa
Giêsu biết tỏng, và Ngài nghiêm
túc nói với họ, có vẻ “dài
dòng” nhưng cần thiết, đồng
thời vừa xác định vừa giải
thích: “Thật,
tôi bảo thật các ông: nếu các
ông không ăn thịt và uống máu
Con Người, các ông không có sự
sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống
máu tôi thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy
sống lại vào ngày sau hết, vì
thịt tôi thật là của ăn, và
máu tôi thật là của uống. Ai ăn
thịt và uống máu tôi thì ở
lại trong tôi, và tôi ở lại
trong người ấy. Như Chúa Cha là
Đấng hằng sống đã sai tôi,
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế
nào thì kẻ ăn tôi cũng sẽ
nhờ tôi mà được sống như
vậy. Đây là bánh từ trời
xuống, không phải như bánh tổ
tiên các ông đã ăn, và họ
đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ
được sống muôn đời”
(Ga 6:53-58). Quả thật, Chúa Giêsu không
chỉ làm cho chúng ta sống, vì chính
Ngài là Sự Sống (Ga 14:6), mà Ngài
còn cho chúng ta được sống dồi
dào (Ga 10:10).
Và
rồi ngay trong Bữa Tiệc Ly, điều đó
đã được Đức Giêsu thực
hiện, đồng thời đó cũng là
cách Ngài thực hiện lời hứa của
Ngài: “Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến
tận thế”
(Mt 28:20). Một cách tương tự là
Ngài cũng đã hứa: “Thầy
sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban
cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác
đến ở với anh em luôn mãi”
(Ga 14:16). Và Chúa Thánh Thần đang ở
với chúng ta hằng ngày cùng với
Thánh Thể.
Tuy
là “bánh từ trời”, nhưng
man-na chỉ là lương thực bình
thường, là loại bánh ăn để
sống phần xác thôi, nghĩa là có
ăn bao nhiêu rồi cũng... chết. Ngược
lại, Mình và Máu Đức Kitô
là lương thực thiêng liêng, vừa
là Thần Lương vừa là Thần
Dược, ăn để có sự sống
và được điều trị phần
hồn (kể cả phần xác), đặc
biệt là Thánh Thể làm cho chúng
ta bất tử và được hưởng
vĩnh phúc. Thánh Thể chính là
Thần Lương tăng lực để chúng
ta đủ sức kiên nhẫn đi hết
chặng đường lữ hành trần
gian, là Của Ăn Đàng, là Nguồn
Trường Sinh của chúng ta.
Đối
với Bí tích Thánh Thể, chúng
ta phải có đức tin trưởng thành,
không thể dựa trên thính thị
hoặc cảm giác. Chỉ có đức
tin mới thực sự cảm nghiệm được
Mình và Máu Thánh của Đức
Giêsu Kitô, Ngôi Hai Thiên Chúa.
Hằng
ngày, mỗi khi rước lễ là chúng
ta đón rước Thiên Vương Giêsu
vào lòng, lúc đó Vua Trời Đất
vui mừng hòa tan vào chúng ta, nên
một với chúng ta, thật là đại
phúc đối với phàm nhân chúng
ta. Ước gì sau khi rước lễ, chúng
ta dành vài phút để cảm nghiệm
Chúa Giêsu Thánh Thể, Vua Thương
Xót, và tâm sự với Ngài. Thực
sự Ngài rất muốn lắng nghe chúng
ta về mọi điều buồn vui, đặc
biệt là Ngài muốn chúng ta tôn
thờ và cảm tạ Ngài. Vài phút
ngắn ngủi đó rất cần thiết
và sinh nhiều ích lợi cho đời
sống của mỗi chúng ta.
Như
chúng ta đã biết, Bí tích
Thánh Thể “gắn liền” với
đức tin. Mà đức tin (nói chung)
là điều rất quan trọng trong đời
sống Kitô hữu, nhưng cũng phải thận
trọng lắm, vì có thể dễ trở
thành cuồng tín hoặc tin lệch lạc.
Vấn đề tín lý quan trọng lắm.
Tương tự, khi nói về Kinh Thánh
cũng phải thận trọng, nếu không
rất nguy hiểm.
Ngày
xưa, có nhiều tà thuyết hoặc dị
giáo – chẳng hạn: Albigensianism (thế
kỷ XII–XIII), Arianism (thế kỷ IV), Donatism
(năm 311), Jansenism (thế kỷ XVII), Macedonianism
(khoảng năm 362), Manichaeism (khoảng 216–276),
Nestorianism (giữa thế kỷ IV và V),
Pelagianism (thế kỷ V), Priscillianism (thế kỷ
IV–V), Calvinism (1570),... Đó là do niềm
tin sai lạc và suy diễn lệch lạc, đối
nghịch với đức tin Công giáo. Có
lẽ họ muốn lập một đạo mới
chăng? Ngày nay cũng vẫn có các
tà thuyết nhưng ở dạng khác,
tinh vi hơn nên khó nhận ra. Còn chúng
ta, những tín hữu của Đức Kitô
Giêsu, hãy cố gắng tâm niệm như
Thánh
nữ Catharina Senensis (Catarina Siêna, 1347–1380):
“Mặc
dù tôi u mê yếu đuối, nhưng
tôi quyết không thất vọng đem linh
hồn của tôi ẩn núp vào trong
các vết thương của Chúa Giêsu,
xin Máu Thánh của Chúa Giêsu rửa
sạch tội lỗi của tôi”.
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, con xin tôn
vinh và kính thờ Ngài. Xin thêm đức
tin cho con người yếu kém của con, xin
dùng Lửa Yêu Mến thiêu đốt
lòng con và biến trái tim chai cứng
của con trở thành trái tim si tình
để con chỉ yêu Ngài mà thôi,
yêu bằng cả con người của con, yêu
qua từng động thái, và xin luôn
canh giữ con như con ngươi trong mắt Ngài
để con xứng đáng đón rước
Ngài vào lòng hằng ngày. Ngài
là Đấng hằng sinh và hiển trị
cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với
Chúa Thánh Thần đến muôn đời.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|