Thiên Chúa là nguồn yêu
thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh
Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúng ta có thể tuyên
xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo rằng:
Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo
Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng là người Kitô
hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa
duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó
là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền
tảng của đức tin chúng ta.
Không ai biết
được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong thời Cựu
ước, loài người chỉ được biết
có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê, Ngài là
Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì
chính Chúa Giêsu mạc khải cho trong thời Tân ước
này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết
được có sự hiện hữu của Thiên Chúa Ba
Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu thương
và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của
sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh được
làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó, chúng ta phải yêu
mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến
tận cùng thế giới.
Giáo hội muốn
dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ
để đặc biệt tôn kính và tim
hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta
sẽ không bao giờ thấu hiểu được Chúa Ba
Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết Chúa
Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và
hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng ngày Chúa
Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta,
do đó, chúng ta phải tôn kính Ngài, học đòi bắt
chước Ngài mà sống yêu thương và phục
vụ.
B. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA.
1. Bài đọc 1: Xh
34, 4-6.8-9.
Qua đoạn sách
Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng
giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết
sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã giải thoát
Israel
khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại
phản bội Ngài, đi thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy
thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã
tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao
ước đối với họ.
Ngay từ thời
Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho
thấy Ngài là một vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân
ước, việc mạc khải được sáng
tỏ hơn với việc Thiên Chúa sai Con Một của
Ngài đến cứu độ trần gian là Đức
Giêsu Kitô.
2. Bài đọc 2:
2Cr 13,11-13.
Thánh Phaolô, dựa vào
niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và bình an, đã
mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi
người đã được cứu chuộc và
được làm con Chúa để mọi người
không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa là Cha:”Cha ơi”.
Vì trong cộng
đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau,
nên thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo
họ hãy sống đoàn kết thương yêu nhau ; đồng thời cũng cầu chúc
họ được tràn đầy ân sủng của Chúa
Ba Ngôi.
3. Bài Tin mừng: Ga 3,16-18.
Bài Tin mừng hôm nay
nhắc lại tư tưởng đã được
đề cập trong bài Cựu ước ở trên: Thiên
Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình
yêu Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể
trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên Chúa yêu
thương đã ban Người Con duy nhất cho trần
gian, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người
phải tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
C. THỰC HÀNH
LỜI CHÚA.
Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
1. Mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đã là mầu
nhiệm thì không thể hiểu thấu được,
nhất là mầu nhiệâm Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu
nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của
thánh Augustinô sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn
đề này: Sau một đời ăn
chơi trụy lạc và chạy theo tà thuyết, Augustinô
đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài
được xem là điển hình của một sự
khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó
được thể hiện qua một giai thoại
như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của
những người cho rằng với kiến thức và
nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc
cạn chân lý về Thiên Chúa. Một hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man
nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa, tình
cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi
trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào một
lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc
nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát
Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái
lỗ mà vẫn không bao giờ đầy. Ngạc nhiên
về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn
ná gợi chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa
bé trả lời không chút do dự:
-
Thưa
ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn
nước bể đại dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó:
-
Cháu không
thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm
cười nói:
-
Múc cạn
nước đại dương để đổ
đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn mầu
nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh Augustinô chợt hiểu được
một chân lý: Thiên Chúa là một mầu nhiệm mà con
người không thể nào thấu hiểu
được.
(D.Wahrheit, Tìm về
cõi phúc, tr 68).
] Thiên Chúa là một mầu
nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã
học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có
3 mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo:
. Mầu nhiệm Ngôi Hai
nhập thể.
. Mầu nhiệm Ngôi Hai
cứu chuộc.
. Mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi.
] Ta không thể biết mầu nhiệm
Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa Giêsu mạc khải cho
trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán:”Mọi
quyền năng trên trời dưới đất
đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy
đi giảng dạy cho muôn dân, làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”
(Mt 28,18-19)
] Đây quả là một mầu
nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn tả
được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong
vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể lấy
được nhiều hình ảnh cụ thể dùng
lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công
viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa rơi để
cố gắng giúp người ta hiểu được
sự vừa đơn nhất vừa đa dạng
của Ba Ngôi. Ông thường nói:”Nước đang
rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể
hiện hữu dưới ba dạng: thể hơi,
thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi
nước, dạng băng và dạng nước mưa
đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất
cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên
tất cả thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể
thấy được chủ ý của Frank muốn nói là
không phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại
nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng khác
nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa
một cách tương tự như thế.
Một phương
pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa
đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi là ví
dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có
lần trong lúc cầu nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba
Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên
một hợp âm duy nhất. Và cuối
cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá
của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một)
để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta
có thể áp dụng tất cả những điều nói
trên vào hành động cụ thể? Chúng ta
có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn
trong cuộc sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho
là hữu ích đó là cầu nguyện mỗi tối
trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút
để hồi tâm về một ngày vừa chấm
dứt...
(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật,
năm A, tr 179-180)
2. Bài học rút ra
từ Chúa Ba Ngôi.
Nói về mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần
học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có
tranh luận đến khô bọt mép đi nữa thì
cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết
luận chung: TÔI TIN”, vì đây là một
mầu nhiệm cao cả trong Đạo mà! Ngay trong
thế giới tâm linh của con người cũng còn có
biết bao điều bí ẩn lớn lao
mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:
Dò sông dò biển
dễ dò,
Nào ai lấy
thước mà đo lòng người. (Ca dao)
Có ai dám tự
phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính
mình không? Khi hai người khác phái
được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình
vợ chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không
bao giờ con người có thể hiểu được
tường tận người phối ngẫu của
mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi
chết, mỗi người vẫn là một mầu
nhiệm đối với nhau.
Nếu những bí
ẩn của đời sống con người còn chưa
hiểu hết được, làm sao ta có thể hiểu
tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có
thể rút ra được vài bài học từ mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống
của ta.
a) Bài học về yêu thương.
Thánh Gioan tông
đồ đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình
thương” (1Ga 4,8). Thánh Grêgôriô Cả
nói:”Để giữ vững cương vị thì tình
thương phải lan tràn sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt
nguồn nơi mình và phải kết thúc nơi
người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ
chứ không còn là tình thương nữa.
Bài Tin mừng hôm nay
bắt đầu bằng câu:”Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho
thế gian, để những ai tin vào Con Một Người
sẽ không phải chết mà còn được sống
đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính
của tình thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu
thương loài người và đã cho loài người
tất cả: trời đất, núi non,
sông biển cùng với muôn vàn tạo vật. Thiên
Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ
chỉ có Người mới cho được. Thiên
Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ
làm cho loài người nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
Thiên Chúa đã ban cho
loài người tất cả rồi. Còn một
điều cao qúi nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban
chính Con Một Người:”Thiên Chúa đã yêu thương
thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một
Người cho thế gian”.
Chúng ta biết do
đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là
chỉ có một bản thể, trong bản thể ấy
lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một Thiên Chúa
duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế
gian... cho nên đã phó Con Một Người cho thế gian,
nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không
những ban Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong
đó gồm cả bản tính Thiên Chúa ở trong Ba Ngôi, cho
nên ban Con Một Người tức là đã ban tất
cả Thiên Chúa – tất cả mình – và chính mình cho thế
gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG thế
gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là
cho TẤT CẢ.(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời
Chúa, năm A, t II, tr 9)
Truyện: Tình yêu hiến thân.
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người
mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ
đề nghị chữa trị bằng quang tuyến,
nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng
không bị nhiễm chất phóng xạ, nên chị từ
chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ
chữa trị ung thư bằng quang tuyến.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi
chết, chị đã sinh được một cháu trai
mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói
rằng:”Vào mấy ngày cuối cùng của cuộc
đời, chị Brown biết mình bị tử thần
đánh bại, nhưng chị vẫn tin tưởng
thế nào chị cũng thành công và sinh được
một đứa con không bị nhiễm phóng xạ”.
Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của
chị Brown là “Cái chết của tình mẫu tử, dám hy
sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần
thấy mặt”.
b) Bài học về Hiệp nhất.
Theo Tân ước,
chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba
Ngôi Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó
là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở
dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ
trên không trung có tiếng phán ra rằng:”Đây là Con Ta yêu
dấu”. Cùng một trật đó,
thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa
Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ
nhất từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi
hiện diện và hành động trong một lúc:
Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi
Cha từ trời phán ra, và sau hết Ngôi Thánh Thần
dưới hình chim bồ câu hiện đến.
Về niềm tin vào
Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin
kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một
Đức Chúa Trời mà Người có Ba Ngôi: Ngôi nhất khác , Ngôi hai khác, Ngôi ba khác... Đức Chuá
Cha là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Con là
Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là
Đức Chúa Trời, nhưng là một Đức Chúa
Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời...
Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng và có từ trước
đời đời ; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng
và có từ trước đời đời ; Đức
Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước
đời đời... Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba
Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả
mọi phương diện... Đức Chúa
Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi
Đức Chúa Cha sinh ra. Đức Chúa
Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra. Đó là
tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa
Giêsu dạy, các tông đồ trối lại và các thánh Giáo
phụ để lại cho chúng ta.
Trong các câu mở
đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và
ca tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng
chữ Hán của ông Cử Thiện ở Bùi chu)
được giáo dân đọc trong các ngày giỗ,
được dịch là:”Tam vị nhất thể Thiên
Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời,
thương xót chúng con. Câu dịch rất vắn gọn và
đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính
Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.
Hình ảnh Thiên Chúa
Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi
từng người nói lên sự hiệp nhất bền
chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô hình
tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho
ta để ta cũng phải củng cố sự
hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng
ta. Sự hiệp nhất sẽ đem
lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời
sống tự nhiên và siêu nhiên.
Truyện: Bài học từ loài ngỗng.
Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng
bay về phương Nam để tránh đông theo hình
chữ V , bạn có tự hỏi
những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ
đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh
của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con ngỗng
bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn
ngỗng tiết kiệm được 71% sức lực
so với khi chúng bay từng con một .
Mỗi khi một con ngỗng bay lạc
khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh chóng cảm
thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc
bay một mình. Nó sẽ nhanh chóng trở lại đàn
để bay theo hình chữ V như
cũ, và được hưởng những ưu thế
của sức mạnh từ bầy. Khi con ngỗng
đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang
vị trí bên cạnh và một con ngỗng khác sẽ
dẫn đầu. Tiếng kêu của bầy ngỗng
từ đàng sau sẽ động viên những con đi
đầu giữ được tốc độ của
chúng.
Cuối cùng, khi một con ngỗng bị
bệnh hay bị thương và rơi xuống, hai con
ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng
xuống với con ngỗng bị thương và bảo
vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng
nào con bị thương lại có thể bay hoặc là
chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn
khác để tiếp tục bay về phương nam
(Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)
c) Một vài thực hành.
] Kinh Sáng danh: Khi đọc
kinh Nhật tụng, mỗi khi đọc kinh Sáng Danh , ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu,
để ca tụng và tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời
sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc
một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có
thể đọc được kinh đó.
] Dấu Thánh giá: một trong
những kinh nguyện mà người công giáo chúng ta học,
là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt
đẹp. Chúng ta đưa bàn tay phải lên trán, lên
ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu
nguyện:”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần” .
Hành động thánh đó nhắc nhở chúng ta rằng: có
Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên
thập gíá vì tất cả chúng ta.
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con
mới hiểu sâu sắc câu nĩi của Đức
Giê-su: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một của Ngài cho họ". Thì ra sự cơng
bằng vơ biên của Cha khơng cho
phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để
cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới
hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại,
trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết
sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết
đáp lại tình yêu vơ biên ấy
bằng trọn tình yêu của con. Đồng thời
cũng cho chúng con được biết thể hiện
tình yêu ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách
yêu thương, phục vụ mọi người và
hiệp nhất với nhau để xây dựng Hội
thánh.
Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa
Một bà kia không biết
đến sự yêu thương của đồng
lọai. Bà là một người không tôn giáo, nghèo khổ
bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị
đối xử bất công lâu ngày đến nỗi bà thù
ghét tất cả mọi người mà mọi
người dường như nghịch cùng bà. Một
lần kia, cha sở đến gặp
bà để nói về tình yêu thương của Thiên Chúa,
song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo: - Tôi
không hiểu ông nói gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi
và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu
thương là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng
vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện với
người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện
liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài
cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ
lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi
sự thể. Rồi ngài đề nghị mọi
người hãy giúp cho bà ấy biết được tình
yêu của Chúa bằng cách mỗi người trong nhóm
sẽ lần lượt từng người đến
thăm bà, chân thành tỏ cho bà biết trên đời này
vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an
ủi và giúp đỡ bà. Mấy tháng trôi qua, một ngày
kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc động
đến rướm nước mắt: - Thưa cha, bây
giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương
là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi
được đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
|