Một Tình
Yêu không thể tin được
(Chú giải và Suy niệm của Lm Px. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ
của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào
một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính
của Đức Giêsu, là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.
Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với
Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong phần đầu (2,1–4,54),
phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi
đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước thành rượu (c.
12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không
gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh
tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại
với người Do-thái về Đền Thờ mới
(cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với
3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21):
Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh
bởi trên cao và diễn từ về việc có sự
sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +):
Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các
môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và
diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là
dẫn nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là
những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì
chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy
chiếu về 3,22-23 và hướng tới 4,43-45).
B’(4,1-3.4-42):
Đối thoại với người phụ nữ Samari
về việc có nước hằng sống và việc
phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu
lạ thứ hai tại Cana miền
Galilê: chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là
đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và không
gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác
định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ
đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về
hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng
Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba
câu nói của ông, Đức Giêsu trả lời bằng công
thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3,
5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét
đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời
của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài
hơn. Về phương diện tư tưởng, có
những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức
Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của
Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ
đến Con Người; những lời ở cc. 16-21
liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai
phương diện hình thức và tư tưởng, chúng
ta có thể xác định bố cục của 3,1-21
như sau:
* Câu 3,1: Dẫn
nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1
(cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là
điều cần thiết để được
đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên
thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi
và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra
bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi
và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra – nhờ
bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2
(cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có
thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và
điều này chỉ được ban cho những ai tin
vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và
câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân
đoạn.
(a) cc. 11-15: Con
phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào
Đức Giêsu là điều cần thiết để
được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác
giả TM IV đã để lại một vài dấu
chỉ giúp khám phá ra lược đồ ngài theo
để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1
bắt đầu với lời khẳng định
của Nicôđêmô: “Chúng tôi biết Thầy là một vị
tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong
thế cân bằng với mở đầu của Phân
đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc
thầy (tôn sư) trong dân Israel, … chúng tôi nói những điều chúng
tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố
cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài
được viết theo kỹ thuật đóng khung
(bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ
nghĩa):
(a) Bản văn
bắt đầu với việc Nicôđêmô đến
với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc
với đề tài người ta phải bỏ bóng tối
để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở
đầu cuộc đối thoại bằng cách chào
Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên Chúa mà
đến; phần cuối của bản văn cho
thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa (c. 16)
mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là
ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi
2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen” Nicôđêmô,
chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác:
ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những
người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm
tin của họ không thỏa đáng vì họ không
đến để thấy Người là ai; ở 3,18,
chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn mạnh
rằng ơn cứu độ chỉ được ban
cho những ai “tin vào danh của Con Một Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã
giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds
21,9tt.
- ai tin vào
Người thì được sống muôn đời (15):
Câu này tương ứng với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn
đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế
gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist
(êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương
tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây
chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về
động từ agapaô được diễn tả ra
thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu
Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập
Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16):
Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc
Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17),
nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh
(trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15).
Như thế, động từ này tương tự
với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi
ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17):
Động từ apostellô này song song với “ban” (didomi)
ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng
có cặp động từ này, “sai” và “ban” ở 14,16.26.
Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ
không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con”
ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi
theo) trong Ga thì hầu như song song với cụm từ
“Con Người” theo truyền thống Nhất Lãm.
- không phải
để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục
tiêu của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi
được gửi vào trần gian: không phải để
lên án, nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14).
Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng
định: “Tôi đến thế gian này chính là để
xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là
cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con
của Ngài đến cũng nhất thiết đưa
loài người đến chỗ phải lấy quyết
định; quyết định trọng yếu nhất
của đời người, là gắn bó với Con
Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc
ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được
cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu
“được cứu độ” ở đây có nghĩa
là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga
12,47).
- vì đã không tin (18):
Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là “đã và
vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh”
chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác
(20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều
tốt”, “sự thật”, hoặc “điều xấu” (xem
cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời
đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta
biết rằng để được tham dự vào
Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu
hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban trong bí tích Rửa Tội,
nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở
trong khởi đầu mới này, chúng ta không
được thụ động, trái lại phải tin
vào Con Thiên Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin
chẳng phải là chuyện của con người.
Đức Giêsu cho thấy rằng đức tin phải
dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh
bởi Thiên Chúa và lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt
tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc sống
chúng ta, đưa đến sự sống đích thực
không qua đi. Không có hai điều này, chúng ta sẽ sai
lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào
để tránh khỏi cái chết thảm thương và
bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng trước những
câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc,
họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9).
Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo
Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ;
ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng
ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ
giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa
đã đặt định rằng Đấng Chịu
Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu
độ, là nguồn mạch đưa tới sự
sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là
chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì
yêu thương toàn thể nhân loại, để họ
được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có
một cường độ và một chiều kích to
lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta
phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu
thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không
bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là
Người Con vẫn sống trong một tương quan
duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là
điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ
một sự ân cần lạ lùng đối với loài
người chúng ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong
cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình
trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu
độ không cần chúng ta, hoặc là ngược
lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải
mở ra với sự ân cần của Thiên Chúa, phải
trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên
Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng
Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con yêu
dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu
này của Thiên Chúa mới có thể thực sự
đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn
mở ra với ánh sáng và sức nóng của Người.
Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của
chúng ta.
Điều cần
thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một
hiện tượng lạ lùng, đó là loài người
lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những
lý do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng
tối; những lý do này nằm nơi lối sống
của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên
tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới dám ra
trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che
giấu. Chúng ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng
của hành động để bày tỏ đức tin.
“Điều thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý
Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe Ngài, chân thành tìm cách
thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì
chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên
Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các
chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm chí
ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình,
thì khép lại với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng
cứ khép lại không nhận được mạc
khải xán lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc
quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao có thể
tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng
đưa người ấy xa rời khuynh hướng
ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận
rằng mình hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì
một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra với
ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy
câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với
loài người được khẳng định
với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện
phải theo để được hưởng nhờ
tình yêu đó cũng được xác nhận hết
sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải
vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng
ta không còn có thể tránh né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là
một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta.
Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng
không phải chỉ là một tư tưởng hay một
lý thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện
hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại
lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên
Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình
yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự
ân cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi
sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho
người mình thương. Người ấy không
dửng dưng với con đường và định
mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm cho
người kia được sống trong niềm vui và
sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải
chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ
mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến
định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta
thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa
đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số
phận của chúng ta, đã ban Người Con Một
để chúng ta được sống viên mãn ngay từ
bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa
đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm
8,32).
2. Sau cuộc tạo
dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả
những hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng
nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao
được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ
quan tâm đến chúng ta riêng tư từng người,
sẽ chỉ cho từng người biết con đường
đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa
ta đến chỗ hiệp thông với Người và
đi đến cuộc sống muôn đời.
Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, không
phải là một tư tưởng hay là một lý
thuyết, một giả thuyết hay một chuyện
tưởng tượng, nhưng là một thực tại
lịch sử đích thực. Từ đó, chúng ta cũng
phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng
hết sức hiện thực.
3. Thiên Chúa, “một”
(độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu
nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ
ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa không mạc khải cho
chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên
xưng các dữ kiện của mầu nhiệm này, và
tiếp cận bằng những bước rất
giới hạn và phiến diện, đồng thời tin
tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của
Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không
nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng
chúng ta đã được mạc khải rằng Thiên
Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách
ban Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu
đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho
thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh
Thần ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại
với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần
tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài
đến với chúng ta, để Người Con cứu
chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp
ta đi lên với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x.
Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
|