“Nếu anh em yêu mến
Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của
Thầy” --- Suy
niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức
Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ
giữ các điều răn của Thầy”. “Các
điều răn của Thầy” ở đây là những
điều răn cụ thể nào? Hãy lấy Kinh Thánh
chứng tỏ điều ấy.
2. Đức
Giêsu có đưa ra một tiêu chuẩn nào để
dựa vào đó ta có thể biết ai là người yêu
mến Thiên Chúa đích thực, là môn đệ đích
thực của Ngài không?
3. Đức
Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai? Bạn quan
niệm thế nào về Thánh Thần? Và muốn lãnh
nhận Thánh Thần ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. “Nếu anh
em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều
răn của Thầy”
Người Ki-tô hữu, theo
định nghĩa, là người có Đức Ki-tô
nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Người không yêu mến
Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên không
phải là Ki-tô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, thì
ta sống trong tình trạng: “Anh em ở trong Thầy, và
Thầy ở trong anh em”. Thật vậy,
người ta chỉ sống trong nhau, vì nhau, cho nhau, khi
người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức
Ki-tô, và được Đức Ki-tô sống trong ta, khi ta
yêu mến Ngài.
Nhưng làm sao yêu
mến Ngài được, khi mà một cách hữu hình ta
không hề thấy Ngài, nghe Ngài nói, động chạm
đến Ngài? Ngài cho chúng ta một tiêu chuẩn để
dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh
em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều
răn của Thầy”. Nhưng điều răn của
Ngài là gì? Có phải là đi lễ, đọc
kinh hay cầu nguyện hằng ngày? Điều
ấy chắc chắn là đúng, nhưng có thể chưa
phải là điều cốt yếu. Điều
cốt yếu trong giới răn của Ngài đã
được chính Ngài xác định rõ ràng như sau: “Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau” (Ga 12,34). Ngài cũng xác
định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”
(nt). Như vậy, câu nói của Ngài
“nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các
điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh
em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”.
Nói khác đi, ai yêu thương những người lân
cận hay những người chung quanh
mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa
hay Đức Giêsu. Nói cách khác nữa, ai không yêu những
người gần gũi mình, những
người mình gặp gỡ hằng ngày, người
ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan
đã diễn giải điều này rõ hơn nữa:
“Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em
mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy”
(Ga 4,20).
2. Làm sao phân biệt
Ki-tô hữu đích thực và không đích thực?
Đức Giêsu còn đưa ra một tiêu
chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích
thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy ở
điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Đọc lời Kinh Thánh
trên, tôi nghĩ ngay đến những tiêu chuẩn mà tôi
thường dùng để phân biệt hàng hoá nào là
thật, hàng nào là giả mạo. Hiện
nay, trên thị trường có rất nhiều hàng giả
mạo, thậm chí tiền cũng bị giả mạo
nữa. Nhưng những người có
kinh nghiệm nghề nghiệp vẫn luôn luôn có những
tiêu chuẩn để phân biệt, nhờ vậy họ ít
khi bị lầm. Chẳng hạn tôi
đã có dịp so sánh hai loại tiền 50.000đ thật
và giả. Loại giả thì giấy mỏng hơn,
không cứng và dai bằng loại
thật, màu sắc cũng không tươi nhuận
bằng. Nhờ tiêu chuẩn ấy, cứ nhìn và cầm
tiền giả trong tay là tôi biết ngay.
Cũng vậy,
Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn
để mọi người có thể nhận ra ai là môn
đệ đích thực của Ngài và ai là người
chỉ mang danh hiệu môn đệ Ngài mà thôi. Đó là dựa trên
tình yêu của người ấy đối với
đồng loại, cụ thể là những người
gần gũi sống chung quanh họ.
Tình yêu cụ thể đối với đồng loại
là tính chất đặc trưng nhất của những
người theo Đức Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta
biết người ấy là môn đệ Đức Giêsu.
Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn
đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ
“hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi. Thánh Phao-lô
nói: “Người Do-thái chính hiệu không phải là căn
cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì
chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy
được bên ngoài, nơi thân xác. Nhưng người Do-thái
chính hiệu là người Do-thái tận đáy lòng, phép
cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo
tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo
chữ viết của Lề Luật” (Rm 2,28-29).
Nếu đúng như vậy, thì một cách tương
tự, không thể căn cứ vào danh hiệu Ki-tô
hữu, vào việc có rửa tội hay không để xác
định người ấy có phải là Ki-tô hữu
đích thực hay không, mà phải căn cứ vào việc
người ấy có tình yêu đối với tha nhân hay
không.
3. “Thầy sẽ xin
… cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác”
Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho
những ai giữ các điều răn của Ngài là yêu
thương tha nhân: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em
sẽ giữ các điều răn của Thầy.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em
một Đấng Bảo Trợ khác đến ở
với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự
thật, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng
biết Người. Còn anh em biết
Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở
trong anh em”. Như vậy, phần thưởng
lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến
Đức Giêsu, được thể hiện cụ
thể bằng việc yêu thương tha nhân, chính là
được Ngài ban Thánh Thần cho. Nhưng
Thánh Thần là ai? Được ban Thánh Thần thì có
gì đặc biệt?
Trước hết, theo
Đức Giêsu, Thánh Thần là “một Đấng Bảo
Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Theo tinh
thần của câu này, thì Đức Giêsu là một
Đấng Bảo Trợ đến trước, còn Thánh
Thần là “một Đấng Bảo Trợ khác”
đến sau Ngài. Thánh Thần là “Thần Khí sự
thật”. Ai yêu sự thật, muốn biết rõ sự
thật, ắt hẳn sẽ thấy “Thần Khí sự
thật” này rất cần thiết cho mình và xã hội, hay thế
giới. Nhưng vì thế gian không yêu sự
chân thật, nên Đức Giêsu mới nói Thánh Thần là
“Đấng mà thế gian không thể đón nhận”.
Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa là
một thực tại được nói đến
rất nhiều trong Thánh Kinh, nhất là Tân Ước. Có
thể nói Thánh Thần là sức sống, là tình yêu, sức
mạnh, là sự khôn ngoan, thánh thiện của Thiên Chúa. Và
Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Ngài cho Giáo Hội, cho
chúng ta, nhất là cho những ai yêu mến Thiên Chúa hay
Đức Giêsu, được thể hiện qua việc
yêu thương tha nhân.
Đọc sách Tông đồ Công vụ, ta
nhận thấy mọi hoạt động trong Giáo Hội
thời ấy đều do Thánh Thần soi sáng,
hướng dẫn, thúc đẩy. Ngài tác động
trực tiếp trên tâm trí người này người kia. Và những người được
tràn đầy Thánh Thần qua việc đặt tay
của các tông đồ để được biến
đổi một cách kỳ diệu: họ trở nên yêu
mến Thiên Chúa, Giáo Hội và sẵn sàng hy sinh cho tha nhân
một cách hăng say, trở nên mạnh mẽ, can
đảm, không sợ khó khăn, nguy hiểm, hay cả cái
chết, trở nên khôn ngoan, sáng suốt phi thường, có
thể làm nên những phép lạ. Đặc
biệt họ trở nên bình an, hạnh phúc bất chấp
những hoàn cảnh khó khăn bên ngoài như bị bách
hại, ghen ghét. Tư cách của
những người được tràn đầy Thánh
Thần hết sức phi thường. Thánh Phao-lô
đã diễn tả những đức tính mà những
người đã lãnh nhận Thánh Thần có
được như sau: “Hoa quả của Thần Khí là:
bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu,
từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).
Theo lời Đức Giêsu hứa, nếu ta
tuân giữ các giới răn của Ngài, cụ thể là
yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu thương
ta và yêu thương họ, thì ta sẽ nhận
được Thánh Thần. Nhờ đó, đời
sống của ta sẽ được biến đổi
một cách kỳ diệu và phi thường. Và
chắc chắn ta sẽ đạt được sự
sống vĩnh cửu, vì “kết quả của Thần
Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8). Vậy muốn được tràn đầy Thánh
Thần, ta phải yêu thương tha nhân.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, qua bài Tin Mừng trên, con nhận
ra một cách rất hữu hiệu để
được Cha và Đức Giêsu yêu mến, tỏ mình
ra cho, đồng thời được ban tràn đầy
Thánh Thần, đó là tuân giữ giới
răn yêu thương của Đức Giêsu. Xin cho con xác
tín rằng tình yêu của con đối với Cha hay
Đức Giêsu phải được thể hiện ra
bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu
những người trong gia đình con, những
người cùng làm việc với con trong xưởng
thợ, những người hàng xóm, những bạn bè con
gặp hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể
bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay
nỗi đau khổ của họ, đồng thời
sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
|