HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH A
Cv 6,1-7; 1 Pr 2,4-9; Ga 14,1-12
ĐỨC GIÊ-SU MẶC
KHẢI SỰ THẬT VỀ CHÚA CHA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 14,1-12
(1) Lòng anh em đừng xao
xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào
Thầy. (2) Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều
chỗ ở. Nếu không, Thầy đã nói
với anh em rồi, vì Thầy đi dọn
chỗ cho anh em. (3) Nếu Thầy đi dọn chỗ cho
anh em, thì Thầy sẽ trở lại, và
đem anh em về với Thầy, để Thầy
ở đâu, anh em cũng ở đó. (4)
Và Thầy đi đâu, thì anh em biết
đường rồi. (5) Ông Tô-ma nói với
Đức Giê-su: “Thưa Thầy, chúng con không
biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con
biết được đường ?” (6)
Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là
sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy”. (7) Nếu anh em biết Thầy, anh
em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây
giờ, anh em biết Người và đã
thấy Người. (8) Ông Phi-líp-phê nói:
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. (9)
Đức Giê-su trả lời: “Thầy ở
với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê,
anh chưa biết Thầy ư ? Ai thấy Thầy là
thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: Xin tỏ cho
chúng con thấy Chúa Cha. (10) Anh không tin rằng
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha
ở trong Thầy sao ? Các lời Thầy
nói với anh em, Thầy không tự mình
nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở
trong Thầy, chính Người làm những
việc của mình. (11) Anh em hãy tin Thầy,
Thầy ở trong Chúa Cha, và Chúa Cha
ở trong Thầy. Bằng không, thì hãy tin
vì chính các việc kia vậy. (12) Thật, Thầy
bảo thật anh em: Ai tin vào Thầy, thì
Người đó cũng sẽ làm
được những việc Thầy làm.
Người đó còn làm những
việc lớn hơn nữa, bởi vì
Thầy đến cùng Chúa Cha.
2. Ý CHÍNH:
Trong bữa Tiệc
Ly, Đức Giê-su đã tiên báo việc
Người sắp từ giã Môn đệ
mà về trời với Chúa Cha. Người
đi trước để dọn chỗ và
sẽ trở lại đón các ông lên
trời với Người (1-4). Sau đó,
Đức Giê-su mặc khải Người
là con đường, là sự thật và
là sự sống. Không ai đến
được với Chúa Cha mà không qua
Người. Ai biết và thấy Người
là đã thấy và biết Chúa Cha (5-7).
Rồi Người cũng cho biết mối liên
hệ mật thiết giữa Chúa Cha với
Người: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha” (9). Cuối cùng Người còn hứa
sẽ ban quyền năng lớn lao cho những
kẻ tin vào Người (12).
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: +
Đừng xao xuyến: Có lẽ sau khi nghe
Thầy cho biết sắp phải chịu tử
nạn (x. Ga 12,32-33), có một kẻ trong Nhóm
Mười Hai sẽ phản nộp Thầy (x. Ga 13,21)
và Phê-rô sẽ chối Thầy ba lần (x. Ga 13,38),
thì các môn đệ cảm thấy xao xuyến
và lo âu chán nản, nên Đức Giê-su
đã phải lên tiếng để động viên
tinh thần của các ông. + Hãy tin vào Thiên Chúa
và tin vào Thầy: Anh em đã tin vào
Thiên Chúa, thì cũng hãy tin vào quyền
năng và tình thương của Thầy sẽ
cứu anh em khỏi mọi nguy hiểm đang
chờ đón anh em. + Nhà Cha Thầy: Là
trời cao hay thiên đàng, nơi Thiên Chúa
ngự trị. + Nhiều chỗ ở:
Theo một số giáo phụ (I-rê-nê, Clê-men-tê, Ô-ri-dê-nê)
thì câu này nghĩa là trên thiên đàng
có nhiều cấp độ hạnh phúc khác
nhau. Tuy nhiên, hầu hết các học giả ngày
nay (Maldonat, Lagrange, Durant, Huby) lại hiểu là trên thiên
đàng sẽ có đủ chỗ ở cho tất
cả mọi người. + Nếu không…: Nếu không
phải như thế thì Đức Giê-su
đã nói rõ để các ông khỏi
thất vọng.
- C 3-4: + Đi
dọn chỗ: Đức Giê-su cho các môn
đệ biết Người không về trời
một mình, mà Người sẽ quay lại
đón các ông lên trời, để các ông
cùng được hưởng hạnh
phúc với Người. + Thì Thầy sẽ
trở lại: Khi nào Người
trở lại ? Có ba ý kiến: Ý
THỨ NHẤT: vào thời Giáo hội
sơ khai, người ta cho là đến ngày
tận thế Chúa Giê-su sẽ lại đến
phán xét chung toàn nhân loại và sẽ cho
các Môn đệ được hưởng
hạnh phúc thiên đàng với Người
(x. Mt 25,31-46). Ý THỨ HAI: cho rằng sự
đoàn tụ với Chúa xảy ra ngay sau
cái chết của từng cá nhân Môn đệ.
Ngày nay nhiều người theo Ý THỨ
BA: Đức Giê-su sẽ đoàn tụ với
các Môn đệ sau khi Người từ
cõi chết sống lại. Từ đây,
Người sẽ hiện diện với các
Môn đệ mọi ngày cho đến tận thế
(x. Mt 28,20), Người sẽ ở giữa
và ở trong các tín hữu bằng
ơn thánh hóa (x. Ga 14,17-18). Rồi sau khi họ
chết, Người sẽ ban cho họ
được hưởng hạnh phúc thiên
đàng tùy theo công việc họ đã làm
khi còn sống (x. Mt 16,27).
- C 5-7: +
Chúng con không biết Thầy đi đâu làm sao
chúng con biết được đường
?: Câu này cho thấy Tô-ma là một con
người thực nghiệm: đòi phải
sờ mó, nhìn xem và kiểm chứng
rồi mới chấp nhận (x. Ga 20,24-29). Câu nói
của Tô-ma chứng tỏ ông cũng như Phê-rô
và các người Do thái khác đều
không hiểu gì về việc ra đi của
Đức Giê-su (x. Ga 13,37; 7,35-36; 8,14). + Chính Thầy là
con đường, là sự thật và
là sự sống: *LÀ CON
ĐƯỜNG: Đức Giê-su là con
đường duy nhất dẫn đưa loài
người từ đất lên trời,
giống như chiếc thang tổ phụ Gia-cóp
đã nằm mơ. *LÀ SỰ THẬT:
“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên
Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua
các Ngôn sứ. Nhưng vào thời sau
hết này, Thiên Chúa đã phán dạy
chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Đức
Giê-su mặc khải về mầu nhiệm Thiên
Chúa (x. Ga 12,45; 14,9) và chỉ đường
cho các tín hữu phải ăn ở sao cho
đẹp lòng Chúa Cha, nhờ lắng nghe
lời Người (x. Mt 17,5). *LÀ SỰ
SỐNG: Con đường dẫn đến mục
tiêu cuối cùng là sự sống sung mãn
nơi Chúa Cha. Chúa Cha đã ban sự
sống cho Đức Giê-su, nên chỉ Người
mới có thể ban sự sống
đời đời cho những ai tin
Người (x. Ga 3,36; 10,28). Tín hữu mang
nơi mình mầm sống vĩnh cửu phải
tiếp tục đón nhận sự sống
ấy qua các phép bí tích do Đức
Giê-su thiết lập, và cố gắng góp
phần làm phát triển sự sống đó
cho đến khi đạt tới sự sống
sung mãn với Chúa Cha ở đời sau. +
Không ai đến với Chúa Cha mà không qua
Thầy: Qua thập giá, Đức Giê-su
đã giao hòa nhân loại với Chúa Cha.
Từ đây, không ai có thể nhận
được ơn cứu độ nếu không đi
“con đường thập giá” (x Mt 16,24) và
không được tái sinh bởi
nước và Thần Khí (x Ga 3,5). Vì
dưới gầm trời này không một danh
nào khác ban ơn cứu độ ngoài Danh
Giê-su Ki-tô. + Ngay từ bây giờ, anh em biết
Người và đã thấy Người:
Thực ra các môn đệ đã không xem
thấy Chúa Cha vì Người thiêng liêng vô hình, mà
chỉ xem thấy Chúa Giê-su, Đấng vừa là Thiên
Chúa vừa là người phàm. Tuy nhiên ai xem thấy Chúa
Giê-su cũng kể như đã thấy Chúa Cha
rồi, vì Chúa Giê-su là Em-ma-nu-en nghĩa là
“Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x Mt 1,23), và
Người hằng làm đẹp lòng Chúa
Cha (x Mt 17,5) và vâng theo ý Cha. Có lần
Người đã khẳng định: “Tôi và
Chúa Cha là Một” (Ga 10,30).
- C 8-10: + Xin
tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha: Phi-líp-phê
đòi Đức Giê-su chỉ cho xem Chúa Cha
như Mô-sê ngày xưa đã xem thấy
Đức Gia-vê trong đám mây trên núi Si-nai (x.
St 24,9-17). + Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha:
Đức Giê-su đã cho Phi-líp-phê biết ngày
nay Thiên Chúa sẽ không tỏ hiện trong sấm
chớp như xưa, mà sẽ ngự nơi
con người Đức Giê-su. Từ nay không
có con đường nào khác để
người ta có thể gặp gỡ Thiên
Chúa, ngoài con đường duy nhất là
chính Đức Giê-su (x. Ga 1,18), vì
Người được ví như Đầu của
thân thể nhiệm mầu là Hội Thánh (x Ep 5,23). +
Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha
ở trong Thầy: Chúa Cha được
mặc khải nơi Đức Giê-su là Con
của Ngài (x. Ga 12,45; 14,7). Tất cả
đời sống, lời nói và việc
làm của Người là nơi mà Chúa
Cha sẽ được tỏ mình ra cách hoàn
hảo. Vì Đức Giê-su luôn kết hiệp
với Chúa Cha và làm theo ý Chúa Cha.
- C 11-12: + Ai tin
vào Thầy, thì người đó cũng
sẽ làm được những việc
Thầy làm: Đó là được tham phần
vào sứ mệnh cứu độ loài
người. + Còn làm những
việc lớn hơn nữa bởi vì
Thầy đến cùng Chúa Cha: Không phải
các Môn đệ sẽ làm được
những phép lạ lớn hơn
Đức Giê-su, nhưng sau khi Người lên
Trời, các ông được trao sứ mệnh
thay Người đi rao giảng Tin Mừng cho
các dân tộc đến tận cùng thế
giới với ơn phù trợ của Thánh Thần (x.
Cv 1,8).
4. CÂU HỎI:
1) Tại sao các Môn đệ bị xao
xuyến khiến cho Đức Giê-su phải
động viên tinh thần các ông ? 2) Đức
Giê-su muốn nói gì qua câu "Trong nhà Cha
Thầy có nhiều chỗ ở" ? 3)
Đức Giê-su hứa đi trước
để dọn chỗ và Người sẽ
trở lại đón các môn đệ đi
theo Người vào lúc nào ? 4) Khi tự ví mình
là con đường, là sự thật
và là sự sống, Đức Giê-su
muốn dạy chúng ta điều gì ? 5) Câu "Không ai
đến được với Chúa Cha mà
không qua Thầy" có ý nghĩa thế nào ? 6) Ngay
từ bây giờ các Môn đệ đã xem
thấy Chúa Cha qua ai ? 7) Từ đây ai muốn
gặp Chúa Cha thì phải gặp qua
người nào ? 8) Ai tin vào Đức Giê-su sẽ
làm được những việc
Người đã làm và còn làm
được việc gì lớn hơn nữa
cụ thể là những việc gì ?
II. SỐNG LỜI
CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Ai thấy Thầy
là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9b).
2. CÂU CHUYỆN :
1) MẮT PHÀM KHÔNG THỂ THẤY THIÊN
CHÚA VÔ HÌNH :
Một ông vua kia do
cận thần xúi bẩy nên một hôm đã ra
lệnh triệu tập tất cả các giám
mục trong nước vào trong hoàng cung. Vua ra
lệnh cho các Giám mục trong một tuần
lễ phải chứng minh Thiên Chúa là Đấng
có thực. Nếu không chứng minh được
thì tất cả các Giám mục sẽ bị khép
vào tội lừa bịp dân chúng và bị
án treo cổ. Thật là một đòi hỏi
nan giải, vì làm sao có thể chỉ cho
nhà vua xem thấy Thiên Chúa vô hình được
? Rồi càng gần đến hết hạn
định, tâm trạng các vị Giám mục
lại càng bị bồn chồn lo lắng.
Bấy giờ một tu sĩ trẻ nghe biết câu
chuyện, liền đến xin phép
được thay cho các Giám mục để
chỉ cho nhà vua xem thấy Thiên Chúa. Đúng
hẹn, anh tu sĩ đã dẫn nhà vua cùng
quần thần đến một ngọn đồi
giữa buổi trưa nắng gắt. Anh
chỉ tay lên mặt trời và tâu nhà vua: “Muôn
tâu bệ hạ, thảo dân xin bệ hạ nhìn theo
ngón tay của thảo dân, thì sẽ xem thấy
Thiên Chúa”. Nhà vua và các quan cận thần
đều nhìn lên mặt trời theo
hướng ngón tay của anh tu sĩ kia, nhưng không
ai có thể nhìn được vì bị
chói mắt. Bấy giờ nhà vua liền
nổi giận ra lệnh chém đầu anh tu sĩ
vì cho rằng anh ta đã dám đánh lừa
mình. Bấy giờ vị tu sĩ liền quỳ
dưới chân nhà vua và thưa rằng:
“Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ đòi xem
bằng được Thiên Chúa. Nhưng
mặt trời kia chỉ là một tạo
vật tầm thường của Thiên Chúa, mà
bệ hạ còn không thể xem được,
thì làm sao bệ hạ có thể nhìn
thấy Thiên Chúa là Đấng vô cùng cao cả
được ? Thiên Chúa luôn hiện hữu, nhưng
vì Ngài thiêng liêng vô hình, nên người ta
không thể xem thấy Ngài bằng cặp
mắt xác thịt, mà chỉ có thể
thấy Ngài bằng cặp mắt
đức tin thôi”
2) NĂM NGƯỜI MÙ CHO BIẾT VỀ HÌNH
DẠNG CON VOI :
Bài
thơ của John Saxe kể lại câu chuyện năm
gã mù người Ấn Độ đứng vòng quanh
một con voi và muốn biết hình thù của con voi ra sao. Gã
mù thứ nhất liền tiến ra sờ vào bên hông của
con voi liền bảo voi giống như một bức
tường. Gã thứ hai sờ thấy ngà voi thì bảo nó
giống như một thanh gươm. Gã thứ ba sờ
thấy chiếc vòi thì bảo nó giống một con rắn
khổng lồ. Gã thứ tư sờ vào cái tai thì bảo
nó giống như một chiếc quạt lớn. Gã thứ
năm sờ vào cái đuôi thì bảo nó giống như một
bó dây thừng. Thế thì ai trong năm gã mù này trả
lời đúng ? Có lẽ cả năm gã mù đều
trả lời đúng, nhưng chỉ đúng một
phần khi dựa vào cảm nghiệm giới hạn của
mình. Phải nhờ ngồi lại đối thoại với
nhau thì họ mới có được một cái nhìn
tổng hợp về hình thù của con voi mà mắt họ
không xem thấy.
3) CÓ THẾ GIỚI NÀO KHÁC SAU KHI CHẾT KHÔNG
?
Có một gia đình kia.
Bà vợ rất sùng đạo, luôn dạy con cái giữ
đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con
đi lễ nhà thờ. Trái lại, ông chồng lại không
tin vào Thiên Chúa và luôn miệng nhạo báng những hành vi
thờ phượng của vợ. Dù sống giữa hai
niềm tin đối kháng nhau của bố mẹ, cậu
con trai duy nhất của họ vẫn luôn yêu mến và
tỏ lòng hiếu thảo với hai cha mẹ. Ngày nọ,
đứa con mắc bệnh hiểm nghèo, các bác sĩ
bệnh viện cũng vô phương cứu chữa. Khi
biết mình sắp chết, cậu bé đã hỏi bố
rằng: "Bố ơi, bác sĩ nói con sẽ không còn
sống được mấy ngày nữa! Vậy con xin
bố hãy nói cho con biết, con phải tin theo bố hay theo
mẹ? Tin theo bố thì sẽ chẳng có thiên đàng,
chẳng có Thiên Chúa và sau này cũng chẳng có bố mẹ
để yêu thương và bảo vệ con ! Còn tin
theo mẹ, thì con sẽ có Thiên Chúa là cha nhân lành ban
thưởng hạnh phúc thiên đàng cho con, và sau này con
cũng hy vọng sẽ được gặp bố mẹ
mãi mãi.
Ông bố nghe con
nói mà nước mắt lưng tròng. Ông ôm con và nói: "Con
hãy tin theo mẹ của con đi nhé". Cậu bé lại
nói: "Nhưng nếu bố không tin giống như mẹ,
thì làm sao con có thể gặp được bố trên thiên
đàng được?" Trước câu nói đơn
sơ chân thành của con, ông bố đã nói với con :
« Bố cũng tin giống như mẹ của con. Sau
này cả gia đình chúng ta sẽ gặp nhau trên Thiên
Đàng con nhé ». Kể từ ngày đó, ông đã hoàn toàn
thay đổi lối sống để trở thành
người tín hữu đạo hạnh với hy
vọng sau này cả gia đình sẽ được
sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.
4) DẤN THÂN ĐI THEO CHỦ TƯỚNG
:
Trận chiến tranh giữa hai bên:
một bên là nước Pháp và bên kia là liên minh hai nước
Ý và Áo đầu năm 1796 đã kết thúc với
chiến thắng của Pháp vào ngày 17.11.1796 như sau :
Đại tướng Bonaparte đã đưa
quân đến một địa điểm, có cái cầu
bắc qua trận tuyến quân địch. Trong lúc trận
thế căng thẳng, đại tướng Bonaparte liền
ra lệnh cho quan Pháp xung phong đi qua cây cầu để
sang bờ bên kia. Nhưng trước họng súng của
quân thù, không một người lính nào dám tuân lệnh
để xung phong tiến lên thành cầu ! Đại
tướng liền xuống ngựa, giựt lấy lá
cờ dẫn đầu của người lính cầm
cờ và ông vừa tiến lên thành cầu vừa hô to : ”Ai
yêu tổ quốc thì đi theo ta”. Nhưng rồi
khi ngó lại, ông thấy trên cầu chỉ có một mình với
lá cờ bị rách tơi tả do đạn của quân
địch. Trong lúc nguy cấp, bỗng xuất hiện một
cậu bé 13 tuổi vừa đánh trống thúc quân vừa hô
xung phong và tiến lên cầu đi theo đại tướng.
Quân sĩ thấy vậy liền ào ào xung phong theo sau lên
cầu sang bên kia sông và đại tướng Bonaparte
đã toàn thắng trận chiến đầy cam go chấm
dứt cuộc chiến tranh.
Tám năm sau, khi Bonaparte đã lên ngôi
lấy tên là hoàng đế Napoléon, có dịp trở lại
chiến trường xưa và được mọi
người đón rước linh đình. Hoàng đế
Napoléon ngỏ ý muốn gặp lại cậu bé Vidal bấy
giờ đã được 20 tuổi, và đang đóng
quân tại địa phương.
Viên sĩ quan tùy tùng báo cáo cho biết cậu
lính trẻ đã được trưởng đơn
vị cho nghỉ phép về nhà đưa đám tang mẹ
mới qua đời. Hoàng đế Napoléon liền bỏ
mọi lễ nghi, cùng đoàn người lên xe đến
làng của Vidal. Đến nơi vừa kịp lúc di quan
đến nghĩa trang. Hoàng đế liền cùng các quan
xuống xe đi bộ theo sau quan tài đến tận
huyệt mộ. Tại đây ông đã nói mấy lời
phân ưu với Vidal trước khi hạ
huyệt. Rồi Hoàng đế ngỏ ý muốn đi
chung với cậu trên đường từ nghĩa trang
về làng. Khi Vidal từ chối không dám, Hoàng
đế Napoléon đã nói với cậu như sau: « Tám
năm trước con đã liều chết xung phong đi theo
ta lên con đường chết, nay con hãy cho ta đi
chung trên con đường sống để chia sẻ nỗi
đau với con » (x. Những tia sáng).
5) NGƯỜI
PHỤC VỤ CHÚA KI-TÔ :
Thỉnh thoảng trong các bức tranh
thánh, chúng ta lại bắt gặp một người
đàn ông trung niên cao lớn có chòm râu rậm ẵm
đứa trẻ lội qua sông. Đứa bé đó chính là
Chúa Hài Đồng, còn người đàn ông kia là thánh CHRISTOPHER,
có nghĩa Người mang Chúa Ki-tô, dựa theo truyền
thuyết nổi tiếng sau đây:
Christopher là một người
khổng lồ gốc Canaan có chiều cao 2.3m. Tên ông là
Reprobus, nghĩa là kẻ bơ vơ, bị xã hội
ruồng bỏ. To cao như vậy mà Reprobus lại có khát
vọng phục vụ một vị vua vĩ đại.
Ông tìm đến nhà vua được truyền tụng là
xuất chúng nhất, nhưng phát hiện ra ông vua này
lại sợ quỷ Satan. Thế là ông lại bỏ đi
tìm quỷ. Tìm thấy Satan rồi, ông dốc lòng phục
vụ hắn, nhưng rồi ông lại phát hiện ra
quỷ cũng biết sợ Chúa Giê-su. Ông bèn lang thang đi
tìm Chúa Giê-su. Theo hướng dẫn của một nhà tu
hành mộ đạo, Reprobus làm nhiệm vụ đưa
mọi người qua một con sông hiểm trở. Nhà tu
hành khuyên ông làm việc thiện này sẽ làm Chúa hài lòng và
sẽ gặp được Chúa Giê-su.
Ông khổng lồ Reprobus miệt mài
cõng người qua con sông dữ cho tới một ngày,
một đứa trẻ xuất hiện. Tuy bé nhưng lại
nặng như chì, ông khổng lồ vốn khỏe mà
bưng em nhỏ qua sông cũng mệt bở hơi tai. Hài
nhi Giê-su cho Reprobus biết sức nặng siêu phàm là do cả
thế giới mà ngài đỡ trên tay. Sau khi hé lộ danh
tính của mình cho Reprobus, Chúa Giê-su đã lập tức biến
mất.
Sau
khi gặp mặt Chúa Giê-su, anh chàng khổng lồ Reprobus
đổi tên thành Christophoros (kẻ mang vác Chúa). Về sau người
ta đọc thành Christopher. Từ đó Christopher bắt
đầu rao giảng truyền đạo, thu phục thêm
nhiều con chiên về cho Chúa. Nhà vua đương
thời là hoàng đế La Mã Decius (249-251) quyết tâm đàn
áp Thiên Chúa giáo. Hoàng đế Decius không để cho
Christopher được yên. Ông bị bỏ tù, tra tấn,
và cuối cùng bị xử tử chặt đầu.
Từ
đó thánh Christopher trở thành vị thánh bảo trợ
đặc biệt cho các du khách và binh sĩ khi ra trận.
Cả đời ngài đã đưa người qua sông an
toàn, thế nên từ Âu sang Á, những người lữ
hành thường mang theo dây chuyền có mặt hình thánh
Christopher, xe cộ du lịch cũng hay có tượng ngài
để phù hộ cho khách đi đường bình an.
Thánh
Christopher đã nâng đỡ Chúa Giê-su bằng bốn cách: Trên
vai khi ngài cõng Chúa qua sông; Trong cơ thể khi ngài chịu
sự tra tấn của nhà vua; Trong tâm khảm khi ngài
tận tuỵ hiến dâng lòng mến Chúa; Và bằng môi miệng
khi ngài rao giảng Tin Mừng. Vì thế mỗi tín hữu
chúng ta đều có thể trở thành một “Christopher –
người mang vác Chúa” nếu chúng ta quyết tâm yêu mến
phụng sự Chúa và chuyên cần làm việc thiện.
3. SUY
NIỆM :
1) CHẲNG AI THẤY THIÊN CHÚA BAO GIỜ :
Chẳng ai có thể thấy
được Thiên Chúa vì Ngài là đấng thiêng liêng vô hình. Nhưng người ta có
thể cảm nghiệm về sự hiện hữu
của Thiên Chúa bằng những cách khác. Giống như
mắt ta không thể nhìn sợi giây nào có điện hay
không, nhưng ta có thể nhận biết có điện
bằng nhiều cách khác. Chẳng hạn khi cả xóm đang
tối thui vì cúp điện đột nhiên có điện
lại, là đám trẻ con liền la to: «Có điện
rồi». Tại sao lũ trẻ lại nhận ra có
điện lại là do chúng thấy bóng đèn cháy sáng,
quạt quay mát, tivi có hình ảnh v.v… Cũng vậy
đối với Thiên Chúa. Tất cả những gì đang
hiện hữu và hoạt động nơi bản thân và môi
trường chung quanh chúng ta đều chứng tỏ có Thiên
Chúa. Vì nếu không có Thiên Chúa thì sẽ chắc chắn
sẽ không thể có những biểu hiện ấy.
2) AI THẤY THẦY LÀ THẤY CHÚA CHA :
Bài Tin Mừng
hôm nay thuật lại câu hỏi của tông đồ Phi-líp-phê
muốn được Thầy chỉ cho xem thấy mặt
Chúa Cha, thì đã được Người trả
lời như sau: “Thầy ở với anh em
bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa
biết Thầy ư ?”. Thực vậy, "Không ai
thấy Thiên Chúa bao giờ, nhưng Con Một là Thiên Chúa và
là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha. Chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Con
người tuy có thể nhận biết có Thiên Chúa qua công
trình sáng tạo và lịch sử cứu độ của
Ngài, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt của Ngài. Chính
Chúa Con là Chúa Giê-su đã tỏ bày cho nhân loại biết
sự thật sâu xa của Thiên Chúa nơi Người:
"Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14,9). Qua
cuộc sống và lời giảng dạy, Người đã
cho nhân loại nhận biết Chúa Cha nơi lời nói và hành
động của Người như sau: Thiên Chúa là
một người Cha từ bi nhân hậu, đầy lòng
xót thương, sẵn sàng tha thứ tội lỗi
của con cái. Chúa Giêsu trở thành con đường
độc nhất dẫn đưa loài người đến
với Chúa Cha: "Không ai đến được
với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6).- "Thiên Chúa không
ban một danh nào khác dưới bầu trời, để
nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu
độ" (Cv 4,12).
Đức Giê-su là Đấng
“Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” (Mt 1,23). Người là hình ảnh
của Thiên Chúa vô hình đã trở nên
hữu hình khi từ trời xuống thế mặc
lấy thân xác phàm nhân (x. Ga 1,14). Người nên
giống loài người chúng ta mọi đàng, ngoại
trừ không phạm tội (x. Dt 4,15). Chính nhờ
Đức Giê-su mà loài người chúng ta mới biết
« Thiên Chúa là Tình Yêu » (1 Ga ,16); Thiên Chúa là Một theo Bản
Tính, nhưng là Ba theo Ngôi Vị (Mầu nhiệm Một Chúa
Ba Ngôi).
3) THẦY LÀ
ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ SỰ SỐNG :
Khi
nghe Đức Giê-su cho biết trong nhà Cha của
Người có nhiều chỗ ở, và
Người sắp về trời là để dọn
chỗ cho các môn đệ. Rồi Người sẽ trở lại để đem các ông lên trời với Người, để
Thầy trò sẽ được ở bên nhau mãi mãi. Ông Tô-ma thắc
mắc « Chúng con không biết Thầy đi đâu,
làm sao biết được đường
đi ? Đức Giê-su trả lời: “Chính
Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến
với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6).
- Là Con đường: Đức
Giê-su vừa
là mục tử dẫn đường cho đoàn chiên là
các tín hữu lên trời, mà Người còn là con
đường, là chiếc cầu duy
nhất dẫn đưa loài người lên trời.
- Là Sự Thật:
Đức Giê-su đến để bày
tỏ sự thật về Thiên Chúa cho chúng ta (x. Ga 12,45). Người là hình
ảnh của Chúa Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,10); “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10,30).
- Là Sự Sống:
Đức Giê-su đã trải qua sự chết và đã sống
lại vinh quang, để mở đường sống
cho những ai tin và chấp nhận đi con
đường “qua đau khổ vào trong vinh quang” của Người,
như thánh Phao-lô viết: “Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng
sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Người
đã lập bí tích Thánh Thể để biến bánh
rượu trở thành Mình Máu Người và mời
gọi các tín hữu lãnh nhận để được
tham phần vào sự sống đời đời với
Người.
4) TRỞ THÀNH CON
ĐƯỜNG DẪN ĐƯA THA NHÂN LÊN TRỜI VỚI
CHÚA CHA :
Trờ thành
Ki-tô hữu tức là thành một Chúa
Giê-su khác trước mặt tha nhân. Mỗi
người chúng ta phải sống thế nào
để cũng có thể nói như thánh Phao-lô: “Đối với
tôi, sống là Đức Ki-tô” (Pl 1, 21). “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô
sống trong tôi” (Gl 2,20). Thánh Phê-rô cũng đã khẳng
định trước Thượng Hội
Đồng Do thái như sau: “Chính Đấng
ấy, là Tảng Đá mà quý vị
là thợ xây loại bỏ, Tảng Đá
ấy lại trở nên đá tảng góc
tường. Ngoài Người ra, không ai đem
lại ơn cứu độ. Vì dưới
gầm trời này, không có một Danh nào
khác đã được ban cho nhân loại,
để chúng ta phải nhờ vào Danh
đó mà được cứu độ”
(Cv 4,11-12).
Ngày nay Đức
Giê-su đã về trời với Chúa Cha, và đã
mở con đường sống cho loài người là
đạo công giáo. Cuộc đời của
Đức Giê-su chính là con đường duy nhất
dẫn đưa chúng ta lên trời. Mỗi lần học
sống Lời Chúa, chúng ta sẽ nhận biết
thánh ý Chúa Cha muốn chúng ta phải làm gì. Một
khi biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa, chúng ta
sẽ đi Con Đường Giê-su : là
« đường hẹp, leo dốc và ít người
muốn đi », là đường « Bỏ mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa », là đường
« mến Chúa yêu người », đường
« Qua đau khổ vào trong vinh quang »… thì
chúng ta cũng sẽ trở thành con
đường để đưa tha nhân cùng
được lên trời với chúng ta. Mỗi lần
dự lễ và rước lễ sốt sắng, chúng ta
sẽ được Chúa Giê-su ban sự sống là ơn Thánh
Thần để giúp ta hăng hái chu toàn sứ vụ làm
chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất.
4. THẢO LUẬN :
1) Bạn có đồng ý với
lập luận như sau: “Đạo nào cũng
tốt. Đạo nào cũng dạy ăn ngay
ở lành. Do đó, Hội Thánh chẳng
cần phải truyền đạo cho ai. Chỉ cần
giúp anh em lương dân sống theo đạo làm
người là đủ” ? Tại sao ? 2) Khi
gặp một hoàn cảnh nan giải, bạn
cần làm gì để nhận biết thánh ý Thiên
Chúa và vâng theo Lời Người chỉ
dạy ? 3) Hát bài kết thúc như sau: “Con
đây ! Lạy Chúa Chúa muốn con làm gì
?"
5. NGUYỆN CẦU :
- LẠY CHÚA GIÊ-SU.
Thánh ý Thiên Chúa là muốn cho mọi
người đều được nhận
biết chân ly và được hưởng ơn
cứu độ. Xin ban cho những ai chưa
biết Thiên Chúa, được nghe Lời
Chúa để có đức tin và quyết
tâm sống theo gương Chúa làm và
lời Chúa dạy để được
hưởng ơn cứu độ. Xin thôi thúc
các tín hữu chúng con biết ý
thức sứ mệnh phải chia sẻ niềm
tin, hạnh phúc, niềm vui và sự bình an cho
lương dân đang sống chung quanh chúng con.
- LẠY CHÚA. Chúng
con cảm thấy mình thật nhỏ bé và
bất lực, khó lòng có thể chu
toàn sứ mệnh truyền giáo mà Chúa đã
trao cho Hội Thánh trước khi về
trời. Xin cho chúng con ý thức
rằng: Sứ mệnh truyền giáo
trước hết phải được
thực hiện cho những người thân quen như:
cha me, vợ chồng, con cái, anh em và bạn
bè của chúng con, rồi sau đó mới
đến người khác. Xin giúp chúng con
năng nhìn ngắm khuôn mặt dịu hiền
của Chúa và suy niệm các hành vi và
lời dạy của Chúa, vì Chúa chính
là hình ảnh trung thực của Chúa Cha.
Xin giúp chúng con biết lắng nghe Lời
Chúa dạy và quyết tâm thực hành theo
trong đời sống thường ngày. Xin cho
chúng con biết từ bỏ ý riêng và
vác thập giá mình hằng ngày mà theo
chân Chúa. Nhờ đó, chúng con hy vọng
sẽ ngày một nên con ngoan hiếu thảo của
Chúa Cha, nên môn đệ đích thực của
Chúa và nên anh chị em của mọi
người.
X) HIỆP CÙNG
MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG
CON
LM
ĐAN VINH - HHTM
|