MỆNH
LỆNH PHỦ ĐỊNH
(Chúa
Nhật V Phục Sinh, năm A)
Trong
các ngôn ngữ đều có dạng
mệnh lệnh cách (imperative), dạng câu
ngắn nhất: chỉ một động từ.
Mệnh lệnh dùng để khuyến khích
hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh
lệnh xác định – hãy làm
điều này, hãy nhớ điều kia,
hoặc mệnh lệnh phủ định –
chớ làm điều kia, đừng làm
điều nọ. Mỗi dạng mệnh lệnh
đều có đặc tính nhất định.
Mệnh
lệnh xác định thường dùng
để khuyến khích hoặc động
viên, mệnh lệnh phủ định thường
dùng để ngăn cấm. Tuy nhiên, Chúa
Giêsu lại sử dụng mệnh lệnh cách
phủ định để khuyến khích chứ
không để ngăn cấm. Ngài động
viên: “Đừng
xao xuyến!”
(Ga 14:1; Ga 14:27). Tương tự, Thánh Phêrô
cũng khuyến khích: “Đừng
sợ những kẻ làm hại anh em và
đừng xao xuyến”
(1 Pr 3:14). Câu nói động viên chúng
ta “đừng sợ và đừng xao
xuyến” cũng chính là bảo chúng
ta “đừng nhút nhát và đừng
lo lắng”. Như vậy có nghĩa là
phải can đảm, muốn can đảm thì
phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì
phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni
Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin
ngự đến!”.
Chính
Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng
ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa
Thánh Thần hoặc Thánh Linh, cũng gọi
là Thần Khí. Nhưng đôi khi người
ta có thể ảo tưởng mà lầm
lẫn, cái gì cũng bảo là “Ý
Chúa”. Vì thế, Thánh Gioan Tông
Đồ đã khuyên chúng ta PHẢI
cảnh giác và đưa ra cách nhận
biết: “Anh
em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng
tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần
khí xem có phải bởi Thiên Chúa
hay không, vì đã có nhiều
ngôn sứ giả
lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào
điều này, anh em nhận ra thần khí
của Thiên Chúa: thần khí nào
tuyên
xưng Đức Giêsu Kitô
là Đấng đã đến và trở
nên người phàm thì thần khí
ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí
nào không
tuyên xưng Đức Giêsu
thì không bởi Thiên Chúa, đó
là thần
khí của
tên
phản Kitô.
Anh em đã nghe nói là nó đang
tới, và hiện
nay nó ở trong thế gian rồi”
(1
Ga 4:1-3).
Quả
thật, lời cảnh báo của Thánh
Gioan thực sự đáng sợ! Và chúng
ta cũng đã và đang thấy nhiều
thứ giả, trong đó có “người
giả” đủ loại – cả đời
và đạo. Những điều tương
tự cũng đã được Đức
Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó,
sự cảnh giác càng cần thiết và
cấp bách hơn bao giờ hết, đặc
biệt trong thế kỷ XXI đầy những
khó khăn này, càng văn minh càng
nhiêu khê. Đúng là cái chữ
@ nó “vòng vo” rắc rối quá
chừng!
Trong
cuộc sống (đời và đạo) luôn
có nhiều thứ khiến chúng ta xao
xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình
vạn trạng, nó len lỏi vào bất
cứ nơi nào, thậm chí ma
quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm
thấy mình đạo đức và thánh
thiện.
Đó là dạng cám dỗ rất
nguy hiểm, vì là dạng GIẢ DANH GIẢ
NGHĨA. Thà rằng nó cám dỗ chúng
ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng”
lại với Chúa thì chúng ta dễ
nhận biết mà tránh, đằng này
nó lại làm cho chúng ta cảm thấy
rất gần Chúa, thực ra chỉ là
“bẫy ảo giác” nó giăng để
chúng ta dễ sập bẫy, thế mới
đáng sợ, và chúng ta phải rất
tỉnh thức – cảnh giác với cả
chính mình!
Một
người quen (tại Hoa Kỳ) cho biết rằng
em gái của họ lấy chồng là Phật
tử, người chồng này làm cho cô
vợ bỏ đạo Công giáo và nói
xấu Công giáo đủ thứ. Ngay tại
Saigon, một thanh niên đã bỏ đạo
Công giáo, rồi cạo đầu và
quy y, anh ta bảo rằng theo Công giáo phải
giữ nghiêm luật nên “căng”
quá, theo Phật giáo “khỏe” hơn
nhiều. Tại Đồng Nai, một nữ tu bỏ
đạo Công giáo rồi đi lập
chùa riêng và làm ni cô trụ
trì. Thiên hình vạn trạng!
Khi
thấy có những trường hợp như
vậy, chúng ta đừng vội hoang mang hoặc
xao xuyến, vì đó là những
trường hợp hiếm hoi, chỉ đủ
đếm trên đầu ngón tay mà
thôi. Thật ra họ chỉ bất mãn một
vấn đề nào đó vì họ
không được “như ý”,
đồng thời họ là những người
“yếu bóng vía” và chẳng
hiểu rõ Công giáo, lý luận của
họ chỉ là dạng “lý sự
cùn”, đầu óc thiển cận
hoặc giống như “ếch ngồi đáy
giếng” mà thôi. Hãy quên họ
đi!
Đối
với những người thực sự giỏi
(đúng nghĩa), họ không như vậy,
thực tế cho chúng ta biết rằng người
ta càng giỏi thì càng tin có Thiên
Chúa. Đa số các bác học đều
là những người tin vào Thiên
Chúa. Khoảng 40 năm trước, Đức
cố TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình
(1910-1995) đã rửa tội cho một Thượng
tọa Phật giáo cao niên vào chính
đêm mừng Con Chúa giáng sinh. (Nay
chợt hồi tưởng liên quan chuyện
“theo đạo”, nhưng tiếc rằng
lâu quá rồi, tôi không còn nhớ
tên ông cựu họ Thích này!). Hơn
20 năm trước, một ni cô chán “ăn
chay trường” rồi gia nhập Công
giáo, sau đó cô này lấy chồng
là người Công giáo. Vợ chồng
họ vẫn sống hạnh phúc tại Thủ
Dầu Một (Bình Dương).
Thiết
tưởng cũng nên xác định rằng
không một người nào lập đạo
mà dám nói “tôi là Thiên
Chúa”, chỉ có Chúa Giêsu.
Chẳng có ai làm được những
phép lạ như Đức Giêsu đã
làm. Và cũng chỉ có Đức
Giêsu dám nói: “Tôi
là con đường, là sự thật và
là sự sống” (Ga
14:6). Đơn giản như vậy thôi cũng
đủ để chúng ta biết đâu
là “chân lý thật” và đâu
là “chân lý giả”. Chính
khoa học và khoa khảo cổ càng ngày
càng phát hiện những điều chính
xác như Kinh Thánh đã đề
cập hàng ngàn năm trước. Các
giáo phái ly khai với Công giáo,
nghĩa là trước đó chính họ
là Công giáo. Họ ly khai vì theo ý
riêng chứ không muốn theo ý chung của
Giáo Hội.
Sự
thật mãi mãi là sự thật, và
chỉ có sự thật mới khả dĩ
giải thoát chúng ta (Ga 8:32). Sách Công
Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể:
Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn
năn sám hối, chịu phép rửa nhân
danh Đức Giêsu Kitô để được
ơn tha tội, và nhận được ân
huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó
đã có khoảng ba ngàn người
theo đạo (Cv 2:38-41). Đâu có thể
đơn giản mà có số người
đông như vậy cùng gia nhập đạo
một lúc, cũng đâu phải họ
theo đạo cho vui hoặc có lợi về
vật chất! Hàng tháng, tại nhiều
nhà thờ Công giáo vẫn có những
người trưởng thành (chứ không
nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí
tích Thánh tẩy. Đó là những
bằng chứng hùng hồn, thực sự là
phép lạ mà Chúa Thánh Thần
vẫn đang tác động không ngừng
trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức
Giêsu Kitô.
Chúng
ta cũng vẫn thấy có những người
gia nhập Công giáo khi họ đã
thực sự trưởng thành (tâm sinh
lý), thậm chí là lớn tuổi, họ
sống đạo rất tốt với một đức
tin trưởng thành và vững mạnh.
Đặc biệt là có những người
theo đạo Công giáo rồi đi tu trở
thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó
có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng (*). Họ
là những người đã trưởng
thành, chắc chắn không ai có thể
“dụ dỗ” được họ nếu
họ không thực sự tin vào
Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh.
Ai cảm thấy còn “đắn đo”,
hãy cố gắng củng cố và giữ
vững lòng tin, hãy hãnh diện về
Đức Tin Công giáo, và đừng
bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều
gì!
Chúng
ta không phủ nhận rằng Giáo hội
Công giáo đặt tiêu chuẩn cao về
luân lý, rất cảm thông với người
bất đồng ý kiến, nhưng không
nhượng bộ bất kỳ áp lực
nào.
Tất cả chúng ta đều là tội
nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ
chịu chết vì chúng ta, mà Ngài
còn thiết lập bí tích Hòa
giải để tha thứ tội lỗi, để
thương xót và ban ân sủng cho
chúng ta, giúp chúng ta sống đời
sống luân lý tốt hơn. Tất cả
là Hồng Ân.
Ngày
xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh
và số môn đệ thêm đông,
các tín hữu Do Thái theo văn hoá
Hy Lạp đã kêu trách các tín
hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc
phân phát lương thực hằng ngày,
các bà goá trong nhóm họ bị
bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười
Hai triệu tập toàn thể các môn
đệ và nói: “Chúng
tôi mà bỏ việc rao giảng Lời
Thiên Chúa để lo việc ăn uống
là điều không phải. Vậy, thưa
anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn
bảy người được tiếng tốt,
đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi
chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm
công việc đó. Còn chúng tôi,
chúng tôi sẽ chuyên
lo cầu nguyện và phục vụ Lời
Thiên Chúa”
(Cv 6:2-4).
Và
trình thuật Cv 6:5-7 cho biết: “Đề
nghị đó được mọi người
tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô,
một người đầy lòng tin và
đầy Thánh Thần, cùng với các
ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô,
Ni-ca-no, Ti-môn, Pác-mê-na và ông
Ni-cô-la, một người ngoại quê
An-ti-ô-khi-a đã theo đạo Do-thái.
Họ đưa các ông ra trước mặt
các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện,
các Tông Đồ đặt tay trên các
ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn,
và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn
đệ tăng thêm rất nhiều, lại
cũng có một
đám rất đông các tư tế
đón nhận đức tin”.
Đó chính là Nhóm Bảy Người,
tức là các Phó tế đầu
tiên của Giáo hội, trong đó có
Phó tế Tê-pha-nô về sau chịu tử
đạo. Không chỉ có Phó tế
Tê-phan-nô mà còn biết bao vị
tử đạo khác đã xả thần
vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi
nơi và mọi thời. Ngày nay cũng
vẫn có các chứng nhân ở đâu
đó trên thế giới…
Đây
là niềm hãnh diện của Kitô hữu:
“Vinh
quang của tôi là Thập Giá của
Đức Giêsu Kitô – Mea Gloria est Crux
Christi”
(Gl
6:14). Chắc chắn không ai và không tôn
giáo nào có dạng vinh quang “ngược
đời” như Kitô giáo. Trong chúng
ta, chắc chắn ai cũng sợ đau khổ,
nhưng khi đã cảm nhận được
đau khổ, người ta lại bị đau
khổ thu hút. Thập Giá có sức
hấp dẫn kỳ lạ. Vô tri bất mộ.
Người không có niềm tin Kitô giáo
sẽ chẳng bao giờ hiểu được
điều đó, thế nên người
vô thần bảo tôn giáo là thuốc
phiện đã “ru ngủ” chúng ta
– các Kitô hữu có vinh quang là
Thập Giá của Đức Kitô.
Thánh
Vịnh gia hân hoan mời gọi: “Người
công chính, hãy reo hò mừng Chúa,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi
khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn
cầm, kính mừng Người, gảy muôn
cung đàn sắt” (Tv
33:1-2). Và rồi không thể lặng im lâu,
Thánh Vịnh gia phải giải thích ngay
lập tức: “Lời
Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi
việc Chúa làm đều đáng cậy
tin. Chúa yêu thích điều công
minh chính trực, tình thương Chúa
chan hoà mặt đất” (Tv
33:4-5).
Thánh
Gioan cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa
là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16), kỳ lạ
là Ngài yêu thương chúng ta ngay
khi chúng ta còn là tội nhân (Rm
5:8), còn thù nghịch với Ngài (Rm
5:10), thậm chí Ngài còn chết để
cứu độ chúng ta. Tình yêu đó
quá lớn lao, lòng thương xót quá
bao la và sâu thẳm. Ngài luôn quan
tâm chúng ta: “Chúa
để mắt trông nom người kính
sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng
Chúa yêu thương, hầu cứu họ
khỏi tay thần chết và nuôi sống
trong buổi cơ hàn” (Tv
33:18-19).
Nhưng
chính mỗi chúng ta đều phải xem
lại chính mình, như Thánh Giacôbê
đã phân tích: “Ai
cho mình đạo đức mà không
kiềm chế miệng lưỡi là tự
dối lòng mình, vì đó chỉ
là thứ đạo
đức hão”
(Gc 1:26).
Thánh
Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động
viên: “Anh
em hãy tiến lại gần Đức Kitô,
viên đá sống động bị người
ta loại bỏ, nhưng đã được
Thiên Chúa chọn lựa và coi là
quý giá. Hãy để Thiên Chúa
dùng anh em như những viên đá
sống động mà xây nên ngôi
Đền Thờ thiêng liêng, và hãy
để Thiên Chúa đặt anh em làm
hàng tư tế thánh,
dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp
lòng Người, nhờ Đức Giêsu
Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh
chép: Này đây Ta đặt tại
Sion một viên đá quý được
lựa chọn, làm đá tảng góc
tường: kẻ tin vào đó sẽ
không phải thất vọng” (1
Pr 2:4-6). Lòng thương xót của Thiên
Chúa quá đỗi kỳ diệu, chúng
ta không thể nào hiểu nổi!
Thánh
Phêrô cho biết thêm về hạnh phúc
của các Kitô hữu, những người
được tái sinh bởi Nước và
Thánh Thần: “Vậy
vinh dự cho anh em là những người tin,
còn đối với những kẻ không
tin thì viên đá thợ xây loại
bỏ đã trở nên đá tảng
góc tường, và cũng là viên
đá làm cho vấp, tảng đá
làm cho ngã. Họ đã vấp
ngã vì không tin vào Lời Chúa.
Số phận của họ là như vậy.
Còn anh em, anh em là giống nòi được
tuyển chọn,
là hàng
tư tế vương giả,
là dân
thánh,
dân
riêng
của Thiên Chúa, để loan truyền
những kỳ công của Người, Đấng
đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu
huyền” (1
Pr 2:7-9). Có nhiều dạng ơn thiên
triệu, nói theo bình dân là “ơn
gọi”, và ơn thiên triệu nào
cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi
kết hôn, ơn gọi độc thân,...
Ơn gọi nào cũng là để hoàn
tất sứ mạng theo kế hoạch của
Thiên Chúa.
Cuộc
sống không hề đơn giản, nhiệm
vụ nào cũng khó, vì thế Chúa
Giêsu đã động viên: “Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên
Chúa và tin vào Thầy” (Ga
14:1). Cuộc sống đã và đang chứng
tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng
là chỉ có Thiên Chúa là cứu
cách và cùng đích, thiếu Đức
Kitô thì chúng ta không thể làm
được gì, dù là điều
nhỏ nhoi (x. Ga 15:5). Chúng ta có hoang mang
hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển
hóa” được gì, đúng
như có lần Chúa Giêsu đã
cảnh báo: “Đừng
chỉ lên đầu mà thề, vì anh
không
thể làm cho một sợi tóc hoá
trắng hay đen được”
(Mt 5:36).
Vì thế mà chúng ta phải sống
theo lời khuyên của Ngài: “Đừng
xao xuyến!”.
Nói theo kiểu nói ngày nay: “Cứ
vô tư mà sống!”.
Lo bạc râu, sầu bạc tóc. Mà có
lo cũng chẳng được, cái gì
đến sẽ đến, thế thì lo chi
cho khổ? Nghe lời Chúa Giêsu bảo “đừng
xao xuyến” cũng chính là tin vào
sự TIỀN ĐỊNH và QUAN PHÒNG của
Thiên Chúa vậy! Và có một điều
thiết tưởng cũng nên lưu ý:
cách nói “không xao xuyến”
nghĩa là đừng chạy theo những cái
mà người ta cho đó là “sự
lạ”, dạng này thường xuyên
được người ta “chú ý”,
mà như vậy là chúng ta chưa thực
sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực
sự tín thác vào Lòng Chúa
Thương Xót. Cẩn tắc vô ưu!
Tại
sao không nên xao xuyến? Chúa Giêsu
căn dặn: “Trong
nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở;
nếu không, Thầy đã nói với
anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ
cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh
em thì Thầy lại đến và đem
anh em về với Thầy, để Thầy ở
đâu, anh em cũng ở đó” (Ga
14:2-3). Người đời cũng biết nhận
định: “Sinh
ký, tử quy – sống gởi, thác
về”.
Thật vậy, thế gian chỉ là chuyến
lữ hành về Thiên Đàng, “cuộc
đời như chiếc cầu, hãy đi qua
chứ đừng dừng lại trên đó”
(Thánh nữ Catarina), chết không là
hết mà chỉ là biến đổi,
chính cái chết là “ngưỡng
cửa” để bước vào sự
sống đời đời. Thật hạnh phúc
cho chúng ta vì được Chúa Giêsu
hứa: “Thầy
ở đâu, anh em cũng ở đó”.
Đúng là niềm hạnh phúc của
mọi niềm hạnh phúc!
Hôm
đó, Chúa Giêsu bảo: “Thầy
đi đâu thì anh em biết đường
rồi”.
Nghe vậy, ông Tôma “gãi đầu”
và hỏi ngay: “Thưa
Thầy, chúng con không biết Thầy đi
đâu, làm sao chúng con biết được
đường?”.
Đức Giêsu cười và đáp:
“Chính
Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai
đến với Chúa Cha mà không qua
Thầy” (Ga
14:6). Đây là câu “nổi tiếng”
trong Kitô giáo, được trích dẫn
rất nhiều, và cũng là niềm hy
vọng chắc chắn của những người
tin vào Con Thiên Chúa, Đấng-nhập-thể-làm-người.
Đức Giêsu nói thêm: “Nếu
anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy.
Ngay từ bây giờ, anh em biết Người
và đã thấy Người” (Ga
14:7).
Sau
đó, ông Philípphê xin Thầy Giêsu
tỏ cho thấy Chúa Cha để được
mãn nguyện., nhưng Ngài trách ông
Philípphê ở với Ngài bao lâu
rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn”
như vậy. Rồi Ngài xác định:
“Ai
thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga
14:9). Chắc chắn đó là cách
hiểu vượt quá tầm hiểu của
phàm nhân, nếu chúng ta ở bên
Chúa Giêsu hồi đó thì chúng
ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như
Tông đồ Philípphê mà thôi,
e rằng chúng ta còn “tệ” hơn
thế đấy!
Chúa
Giêsu nói thêm để giải thích
cho ông Philípphê và các Tông
đồ khác – đồng thời cũng
là nói với mỗi chúng ta hôm
nay: “Anh
không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha
và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các
lời Thầy nói với anh em, Thầy
không tự mình nói ra.
Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong
Thầy, chính Người làm những việc
của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy
ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong
Thầy;
bằng không thì hãy tin vì công
việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo
thật anh em, ai
tin vào Thầy thì người đó
cũng sẽ làm được những việc
Thầy làm.
Người đó còn làm những
việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy
đến cùng Chúa Cha” (Ga
14:10-12).
Và
rồi một lần nữa, Chúa Giêsu lại
nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
Đức Tin. Thật vậy, khi có đủ
niềm tín thác vào Thiên Chúa
là Đấng giàu lòng thương
xót, luôn quan phòng và tiền định
cho mỗi người theo ơn gọi riêng,
người ta sẽ thanh thản và sống
theo lời khuyên và cũng là lời
động viên của Đức Kitô Giêsu:
“Đừng
xao xuyến!”.
Ước gì mỗi Kitô hữu chúng
ta đều có thể xác định như
Thánh Vịnh gia: “Chúa
là gia nghiệp đời con” (Tv
16:5-6).
Lạy
Thiên Chúa nhân hậu, con chỉ là
hạt bụi bé nhỏ nhất mà đã
làm bận mắt Ngài, xin thương ban
thêm Đức Tin và lòng can đảm
để con không bị dao động trước
mọi nghịch cảnh, ngay cả khi đối
diện với kẻ thù. Xin làm cho con nên
thánh theo ước muốn và kế hoạch
mầu nhiệm của Ngài. Xin ban Thần Khí
Ngài để con sống can đảm và
bình an. Con cầu xin nhân danh Đức
Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ
nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
(*)
Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa-minh,
1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc
dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là
cháu trực hệ đời thứ năm của
vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng
Trình, đại thần Cơ Mật viện
và đại thần Tôn Nhơn Phủ
(1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là
cụ bà Trần Thị Như Uyển,
cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng
Thư.
Cậu
Bửu Dưỡng là con trai thứ năm.
Thiếu thời, cậu học trường Quốc
Học Huế, rồi trường Cao Đẳng
Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở
về Huế làm thông phán sở
Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình
hoàng tộc và tôn sùng đạo
Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác
cảm với Công giáo, nhưng “duyên
Trời” ấn định khác.
Thượng
tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng
lên đường ra Quảng Trị, tìm
lên vùng núi Phước Sơn, xin học
giáo lý để nhận bí tích
Rửa tội và gia nhập dòng Xitô
(Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố
Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy
giáo lý. Lễ rửa tội được
cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên
trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng
nhận thánh danh Bô-ni-pha-xi-ô
(Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp”.
Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh
là Phó tế Ta-đê-ô Lê
Hữu Từ (sau đó làm giám
mục).
Sau
một năm ở tập viện Xitô Phước
Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe
yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp,
lại bị mụt nhọt ở chân, được
Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng
bệnh tại gia đình ở Huế. Trong
thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có
nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu
Thế, với ý muốn nhập dòng nầy
nhưng không thành…
Trong
khi dịch giùm cho các linh mục Dòng
Chúa Cứu Thế một số bài giảng,
thầy được đọc sách của Thánh
Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý
và thần học của vị tiến sĩ
nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và
có ý muốn theo chân ngài trong một
dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết
giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh
mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế
giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh
mới đến Hà Nội lập dòng và
thầy được chấp nhận để
thử một thời gian. Mọi sự đều
êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm
thấy mình đi đúng hướng và
được gởi đi du học tại Pháp
ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.
Sau
một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu
sinh Bửu Dưỡng là người Việt
Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa
Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc
dù mụt nhọt ở chân trở nên
trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải
chịu giải phẩu cưa một chân, gắn
chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp
nhận phong chức linh mục cho thầy
vì khả năng trí tuệ đặc
biệt của thầy.
Lễ
phong chức được cử hành ngày
2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng
cháu giống của vua chúa triều Nguyễn
không còn gì trăn trở băn khoăn
mà thẳng đường trực chỉ dấn
thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của
Chúa Giêsu cho đến trọn đời.
Trong
“Cuộc Hành Trình Của Đời
Tôi”, Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước
kia tôi
rất ghét Kitô giáo
và không
muốn có một liên hệ
nào dù xa dù gần với các linh
mục hay người có đạo. Tôi
không
bao giờ
đọc một cuốn sách báo nào
dính dáng đến đạo Công
giáo. Cái ấn tượng ghét đạo
đã khiến tôi trở thành cực
đoan một cách vô lý, đến độ
mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên
Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu
và nếu có thể, tôi sửa thành
chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các
trẻ em, tôi
chống lại việc dùng chữ Thiên
Chúa.
Lòng ác cảm đã khiến tôi
trở thành điên rồ. Có những
thời gian tôi
cảm thấy bất an trong đời sống,
dường như tôi đang trải qua những
cơn khủng hoảng của đời sống,
cái tâm trạng nầy kéo dài
trong suốt ba năm liền… Những lần
tôi không giải trí với các bạn
trong giờ giải trí, những đêm dài
mất ngủ, những buổi chiều trống
rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn…
Tất cả những tâm trạng ấy đưa
tôi đến việc tự hỏi: ‘Có
phải Kitô giáo là một tôn giáo
thật và tôi phải theo hay không?’.
Tôi phải theo? Thật là một điều
ngoài trí tưởng tượng. Không
bao giờ! Dù nó đúng, nó trật,
nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù
trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Ý
Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng
thù ghét Công giáo đã trở
thành một Bửu Dưỡng yêu mến
Công giáo, và trở thành Linh mục
Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là
người mở Học viện Minh Đức
(Thủ Đức) nổi tiếng một thời
trước năm 1975. May mắn tôi được
gặp ngài một lần, được đọc
cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ”
của ngài và “Công Đồng
Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí
óc của ngài đúng là một
học giả hiếm có.
|