Hành trình Emmau - Đamas
(Suy niệm
của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Có thể nói
đường đi Emmau nào có khác chi đường
đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê,
Saolô hăng hái lên đường bắt bớ.Tiếc
thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau
hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai
đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ
đều cần ơn “trở lại” để
đổi mới cuộc đời.
Chính Chúa Giêsu
Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự
hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã
khỏi yên ngựa.
Dưới tác
động của ân sủng, họ được
biến đổi trở nên chứng nhân loan báo Tin
mừng Phục sinh.
Hành trình Emmau:
Ai đã
từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên
đường sự nghiệp sẽ hiểu
được tâm trạng buồn phiền chán nản,
nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên
đường Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước
mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ
tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng,
họ luôn ôm ấp hoãi bảo lớn lao. Thầy sẽ
lập quốc,đánh đuổi đế quốc La
mã.Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại
thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần
thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực
thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ
khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối
họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những
kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ
phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy
vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu
Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để
làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm
hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập
giá được giương cao và vị cứu tinh
được chờ đợi với biết bao kỳ
vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái
chết đớn đau ô nhục.
Nổi buồn
mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho
họ không còn nhạy cảm với những thực
tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu
Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy
nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy
đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ
đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân
tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu
Phục Sinh đến như người bạn
đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể
nổi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa
bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh ”Bắt
đầu từ Môisen và duyệt qua hết các tiên tri, chú
giải cho họ những gì liên quan đến
Người trong các bản văn thánh kinh”. Vậy thì
cả lịch sử cứu độ hướng về
Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ
trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử
chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử
của Đức Kitô. Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi
vẫn là một. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên,
nội tâm được biến đổi.
Trong quán
trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh.
Mắt họ mở ra khi ”Đức Giêsu cầm lấy
bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là
cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một
dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ.
Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức
Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông
đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại
được Chúa, Đấng Hằng sống trên
đường đời của họ. Từ nay, Chúa
ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu
chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục
sinh.
Con
đường dẫn đưa những người
lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa
xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về
Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin
mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ.
Họ gặp các Tông đồ và kể lại cuộc
gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục
sinh.
Từ nay, các
ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng
đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn
dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng
niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và
trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông
sẽ là người loan báo Đấng Phục sinh cho anh
chị em của mình bằng chứng từ của một
đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào
cản nào chắn được bước chân của
các Ngài nữa vì Đấng Phục sinh đang cùng họ
đồng hành trên khắp mọi nẻo đường
trần thế.
Hành trình Đamas:
Trước khi
trở lại, đối với Phaolô, Tin mừng về
Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất
chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống
lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta
đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn
văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền
rằng: Giêsu Nazareth, người mà Thiên Chúa đã uỷ
thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà
các ông đã bắt và đã kết tội tử
hình,đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã
phục sinh Ngài. Phải, Thiên Chúa đã cho cho sống
lại… chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng
tôi đã là nhân chứng tại chỗ.
Saolô với
tư cách là người có học, một biệt phái
mộ đạo. Ông có thông biết thánh kinh bằng hay
hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng? Phêrô, Gioan
đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người
bệnh và người bệnh được khoẻ
mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục
tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng
ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên
cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được
thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu.
Người lạ gặp thấy hai ông đang lên
tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu
đã sống lại, hai ông đã chứng thực về
những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không
thể chấp nhận như thế mãi được,
phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận
lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi
Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang,
bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt.
Không quan trọng! Saolô ra đi, điều cần thiết
nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo
về Giêrusalem.
Và bỗng
chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ
lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ong không còn thấy gì nữa.
Ong nghe có tiếng gọi ông: ”Sa-un, Sa-un, sao ngươi
lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi
lại: ”Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng nói lại âm vang: ”Ta
là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,5) Saolô hoàn toàn
bối rối. Ong nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt
bớ các môn đệ Ngài thôi! Thê rồi ông chợt
hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô
đã khuất phục: ”Lạy Chúa,Chúa muốn con làm gì?”. Chúa
truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania (Cv 9,5-8). Saolô
đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông
được đưa về Đamas. Sau ba ngày,có
một người Dothái thuộc cộng đoàn mới
đã đến gõ cửa và bảo: ”Saolô,người anh
em,hãy nhìn thấy lại”. Phép lạ đã xảy ra, Saolô
lại thấy được. Saolô đã chịu phép
rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để
tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện. Thế là ông
rời bỏ Đamas để sang vùng Ảrập
sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn
bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba
năm (Gal 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm thánh
kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí
Chúa để hiểu rõ Tin mừng. Ba năm trời đã
cho ông tâm tình của Chúa Kitô,đã đồng hoá ông với
Đức Kitô đến nổi ông phải tuyên bố: ”Không
phải tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi”
(Col 2,20).
Kể từ
lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ong
nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với
tất cả thao thức ”Khốn thân tôi, nếu tôi không
rao giảng Tin mừng” (1Cor 5,14). Với tên mới Phaolô,
vị tông đồ được Chúa chữa sáng mắt
đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng
Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại
lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu
mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài” tôi sống trong
niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí
mạng vì tôi” (Gal 2,20).
Hành trình
Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô.
Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình
của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn
thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn
”Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức
Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần
truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng
sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên
phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất
cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay
bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta
trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta“ (Rm 8,35-39).
Đọc
lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận
thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu
là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ
niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình
theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối
diện với vô vàn khó khăn phức tạp của
đời sống muôn mặt. Có những thất bại,
có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng
hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và
can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho
thế gian hoành hành.
Chính trong
những lúc thất vọng hay bị bách hại thì
Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để
người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện
diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy
vọng tràn đầy.
Hãy biết
nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ
Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố
đau đớn như Phaolô té ngựa trên
đường Đamas.
Với tất
cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định
người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân
của niềm hy vọng, chứng nhân của sự
sống, chứng nhân của niềm vui.
|