Chúa Giêsu đồng
hành – Lm Đan Quang Tâm
Tam Nhân Đồng Hành
Tất Hữu Ngã Sư Yên
Ở đây
người thày đó chính là Thày Chí Thánh của chúng ta. Còn
hai người kia là ai? Ta hãy nghe Lu-ca thuật chuyện.
Cũng ngày hôm
ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi
đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem chừng
mười một cây số (c. 13). Hôm ấy là Chủ
Nhật Phục Sinh. Có hai người trong nhóm môn
đệ Đức Giê-su đi từ Giê-ru-sa-lem về quê
là làng Em-mau. Họ trò chuyện với nhau về tất
cả những sự việc mới xảy ra (c. 14). Chính
Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi
với họ (c. 15).
Cựu
Ước viết: "Thiên Chúa cùng đi với
họ" trong vườn địa đàng. Đức
Giê-su, "Con Một Thiên Chúa, Thiên Chúa thật bởi Thiên
Chúa thật", một lần nữa cùng đi với con
người. Ở đây Ngài đi cùng con người
đang khi họ thất vọng não nề, lòng tin lung lay,
mộng đẹp tan vỡ. Ngài đi cùng họ trong
cuộc hành trình đức tin, trên con đường
lữ thứ trần gian.
Người
hỏi họ: "Các anh vừa đi vừa trao
đổi với nhau về chuyện gì vậy?"
Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu.
Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả
lời: "Chắc ông là người duy nhất trú
ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những
chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay."
Đức Giê-su hỏi: "Chuyện gì vậy?" (c.
17-19a). Được lời như cởi tấm lòng,
họ được dịp trút hết nỗi phiền
muộn âu lo đang đè nặng tâm tư. Họ thưa:
"Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn
sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như
lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân" (c. 19b).
Câu trả
lời của Cơ-lê-ô-pát tóm tắt cuộc đời và
sứ mạng của Đức Ki-tô. Ông kể lể
về cuộc thương khó và cái chết của Ngài:
"Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của
chúng ta đã nộp Người để Người
bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào
thập giá" (c. 20). Ông bày tỏ nỗi thất vọng
não nề của các môn đệ: "Phần chúng tôi,
trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en.
Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến
nay là ngày thứ ba rồi" (c. 21).
Ông thuật
lại sự việc vừa mới xảy ra buổi
sớm mai còn tươi rói trong tâm trí của mình:
"Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong
nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra
mộ hồi sáng sớm, không thấy xác Người
đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần
hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. Vài
người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy
sự việc y như các bà ấy nói; còn chính Người
thì họ không thấy" (c. 22 - 24).
Bấy giờ
Đức Giê-su nói với hai ông rằng: "Các anh
chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm
tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại
chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi
mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi
bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn
sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên
quan đến Người trong tất cả Sách Thánh" (c.
25 - 27).
Trước
đó, Đức Giê-su đã bảo người Do-thái:
"Các ông nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong
đó các ông sẽ tìm được sự sống
đời đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng
về tôi" (Ga 5, 39). Khi tuyên bố điều ấy, Ngài
chỉ cho ta một phương thế chắc chắn
để nhận biết Ngài. Đức Phao-lô IV dạy
ta rằng ngày nay cũng vậy, việc chuyên cần
đọc Sách Thánh và tôn kính Lời Chúa là một ơn linh
hứng rõ rệt của Chúa Thánh Thần. "Các tiến
bộ đạt được trong lĩnh vực nghiên
cứu Kinh Thánh, việc phổ biến, phát hành Sách Thánh
ngày càng gia tăng, và trên hết là gương mẫu
của truyền thống và tác động từ bên trong
của Đức Chúa Thánh Thần có chiều hướng
giúp người Ki-tô hữu thời nay ngày càng sử
dụng nhiều Kinh Thánh như cuốn sách kinh nguyện
căn bản và kín múc, rút ra từ đấy nguồn linh
hứng thực sự và các gương mẫu tuyệt
vời vô song" (Đức Phao-lô VI, Marialis Cultus, 30).
QUA THẬP GIÁ
BƯỚC VÀO VINH QUANG
Thấy các môn
đệ sa sút, xuống tinh thần, Đức Giê-su kiên
nhẫn mở lòng trí cho họ hiểu ý nghĩa các
đoạn Kinh Thánh nói về Đấng Mê-si-a: "Nào
Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ
hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người
sao?" (c. 26). Với lời này, Ngài gột rửa
khỏi tâm trí các ông hình ảnh về một đấng
Mê-si-a trần tục nặng về tính chính trị và
tỏ bày cho các ông thấy sứ mạng của
Đức Ki-tô là một sứ mạng siêu nhiên: cứu
chuộc cả nhân loại.
Kinh Thánh nói tiên
tri về Thiên Chúa quyết ý ban ơn cứu độ cho
nhân loại qua cuộc thương khó và cái chết của
Đấng Mê-si-a. Thập Giá không phải là thất
bại, mà là thắng lợi vĩ đại nhất,
thắng lợi của sự sống trên sự chết,
của ân sủng trên tội lỗi, tình yêu chiến
thắng hận thù, ánh sáng chiếu soi trên bóng đêm u
tối. Mác-cô thuật cho chúng ta vào chiều thứ sáu
Tuần Thánh trên đồi Can-vê, "bóng tối bao phủ
khắp mặt đất" (Mc 15, 33) nhưng vào buổi
sáng Phục Sinh "mặt trời hé mọc" (Mc 16, 2).
Phao-lô quả
quyết rằng thập giá chính là con đường Thiên
Chúa đã chọn cho Đức Ki-tô qua đó chiến
thắng tội lỗi và sự chết: "Trong khi
người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng
dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng
Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái
coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại
cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai
được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp,
Đấng ấy chính là Đức Ki-tô, sức mạnh và
sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1 Cr 1, 22-24).
Vinh quang
Phục Sinh gắn liền với cây Thập Giá như hai
mặt của cùng một tấm huy chương. Đúng
như Chúa đã nói với hai môn đệ thành Em-mau:
"Đức Ki-tô phải chịu khổ hình để
bước vào vinh quang của Ngài" (Lc 24, 26).
Cho nên nhà
thần học Burno Forte đã viết một cách chí lý:
"Khuôn mặt của Chúa Ki-tô được tỏ bày
cách đầy đủ trong sự nối kết cái
chết nhục nhã của Ngài với sự phục sinh
của Ngài: Không có sự phục sinh, cây thập giá sẽ
là sự thú nhận sau cùng của bất lực của con
người, nhưng được rực sáng bởi
sự Phục Sinh, cây thập giá đã là Thập Giá
của Con Thiên Chúa, chết thay cho ta và vì ta, vì Ngài liên
đới với những đau khổ của nhân
loại. Còn nếu không có thập giá, sự Phục Sinh
sẽ là lời công bố một chiến thắng không có
kẻ thù; trái lại, liên kết với cây thập giá,
sự sống lại của Đấng bị đóng
đinh trên Thập Giá sẽ là lời công bố cuộc
chiến thắng của Thiên Chúa trên trái đất này, trái
đất của những kẻ chết và những tên
đao phủ. Không có Phục Sinh, Thập Giá sẽ như
mù, không có tương lai, không có hy vọng; nhưng không có
thập giá, phục sinh sẽ rỗng tuếch, không có quá
khứ và không có gốc rễ. Khoa Ki-tô học phải luôn
giữ cả hai, Thập Giá và Phục Sinh, nếu muốn
tìm kiếm khuôn mặt của Chúa Giê-su, mà không làm sai
lệch hoặc không bóp mép khuôn mặt đó theo mẫu
mực những chân trời nhân loại". (The Navarre Bible
St Luke, Nhà Xuất Bản Four Courts Press, Kill Lane, Blackrock, Co.
Dublin, Ireland, 1997)
Có ai hiểu Kinh
Thánh cho bằng Đức Ki-tô. Và sau Ngài, Hội Thánh
được uỷ thác sứ mạng giữ gìn và
giải thích kho tàng Lời Chúa: "Mọi điều liên
hệ đến việc giải thích Kinh Thánh cuối cùng
đều phải tuỳ thuộc vào phán quyết của
Hội Thánh vì Hội Thánh được Thiên Chúa giao cho
sứ mạng và chức vu giữ gìn và giải thích
Lời Chúa" (Vatican II, Dei Verbum, 12).
GẶP GỠ
ĐỨC KI-TÔ PHỤC SINH, NIỀM VUI VÀ BÌNH AN
Trong cuộc
chuyện trò với Đức Ki-tô, hai môn đệ
đang từ tâm trạng buồn chán, thất vọng
chuyển sang mừng rỡ hân hoan. Họ cảm thấy
an vui, phấn khởi, hy vọng trở lại.
"Dọc đường, khi Người nói chuyện và
giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng
bừng cháy lên sao?" (c. 32)
Khi hai môn
đệ bắt đầu cuộc hành trình, lòng các ông
lạnh giá, ảo não nặng nề, chua chát. Họ đã
chắc mẫm hai năm rõ mười rằng Đức
Giê-su là Đấng Mê-si-a mà lòng họ mong đợi.
Thế nhưng cái chết của Ngài đã dập tan
mọi hy vọng nhen nhúm. Một Đấng Mê-si-a chịu
khổ hình thập giá nhục nhã! Thật chẳng tài nào
xảy ra sự kiện đó được! Chẳng
thể tưởng tượng được!
Thế nhưng
khi có Đức Giê-su đồng hành và soi lòng mở trí cho
họ hiểu về Đấng Thiên Sai chịu đau
khổ. Lời Ngài sáng soi và sưởi ấm cõi lòng u tối
và lạnh giá của họ. Khi được Ngài mạc
khải qua việc bẻ bánh, họ được
biến đổi. Họ được biến
đổi sâu xa đến nỗi ngay lập tức
họ quày quả hăm hở trở về chính nơi
họ vừa mới bỏ mà ra đi. Dù trời nhá nhem
chạng vạng, lòng họ sáng. Dù đôi chân nặng
nề vì cuộc hành trình mới trải qua, tâm hồn
họ nhẹ nhõm lâng lâng.
Điều gì
đã thực sự xảy ra? Đức Giê-su đã
mở trí cho họ. Hẳn nhiên rồi! Nhưng còn hơn
thế nữa: Ngài đốt lửa trong lòng họ
khiến tim họ bừng cháy. Thánh Âu-tinh mách ta một bí
quyết để gặp Chúa: "Nếu bạn muốn
có sự sống, hãy làm điều các môn đệ đã
làm. Họ ban tặng Ngài lòng hiếu khách. Chúa làm như
thể cương quyết tiếp tục cuộc hành
trình nhưng họ cố nài ép, lưu Ngài lại. Kết
thúc cuộc hành trình của mình, họ nói với Ngài:
"Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời
đã xế chiều, và ngày sắp tàn". Chúa tự
mạc khải qua việc bẻ bánh. Lòng hiếu khách
đã phục hồi điều mà sự thiếu lòng tin
đã lấy đi. Vậy, nếu bạn muốn nhận
ra Đấng Cứu Thế, hãy đón nhận
người lạ. Hãy tìm kiếm Chúa trong việc chia
cơm sẻ bánh".
KẾT LUẬN
Đức Ki-tô
có thể đến với tôi như một người
lạ tôi gặp trên đường đời, cho dù tôi
chỉ gặp mỗi một lần. Lại còn phê bình tôi -
mà rất đúng - "Ôi, chẳng hiểu gì cả! Lòng trí
chậm tin!" Ngài còn có thể đến với tôi trong
Kinh Thánh và qua tiệc Thánh Thể khi Linh Mục "bẻ
bánh", nghĩa là Ngài đến với tôi trong Hội
Thánh qua Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể.
Sau cùng Ngài có thể đến với tôi khi tôi ân cần
tiếp đãi người khác. Cử chỉ ấy có
thể bù đắp cho sự "trì độn, chậm
tin" của tôi, giúp tôi được ơn gặp Chúa.
Gần suốt
cuộc đời rong ruổi, bôn ba, suy gẫm lại hoá
ra cái đáng quý, "sự cần duy nhất" của
đời tôi là chính Đấng Phục Sinh vẫn
đồng hành cùng tôi trong cuộc sống. Và rồi
khẩn khoản nài xin: "Mời Ngài ở lại
với chúng con, vì trời đã xế chiều, và ngày
sắp tàn".
Xin
được kết thúc bằng lời cầu nguyện
của Cha Pi-ô:
"Xin ở lại với con,
lạy Chúa, vì con cần có Chúa hiện diện để
con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa
chừng nào.
Xin ở lại với con,
lạy Chúa, vì con yếu đuối, con cần Chúa
đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa, con đâu còn nồng
nhiệt hăng say.
Xin ở lại với con,
lạy Chúa, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp
tàn, cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần
đến.
Con cần thêm sức mạnh
để khỏi dừng lại dọc đường.
Xin ở lại với con,
lạy Chúa, vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc
đời.
Con không dám xin những ơn siêu
phàm, chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.
Xin ở lại với con,
lạy Chúa, vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa và không đòi
phần thưởng nào khác ngoài việc được yêu
Chúa hơn."
|