VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục
Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất
Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công
việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức
Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để
họ đi ra mộ. Họ muốn được gần
gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn
cho cuộc sống của họ, và cái chết của
Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn
không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta
cũng thường làm điều tương tự
như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của
chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp
nhận được là người đó đã vĩnh
viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có
nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết.
Một trong những cách thức để chúng ta đáp ứng
được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ.
Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự
mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi
đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có
khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là
kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng
ta tin chắc chắn rằng người thân yêu của
chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày
Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ
diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ
sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ
lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng
rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ Sáu không phải
là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng
khiếp. Nhưng mọi việc lại không diễn ra
như dự định.
Tại mộ, họ
đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với
họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống
giữa kẻ chết? Người không còn ở đây nữa,
nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ
điệp Phục Sinh lần đầu tiên được
gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin
này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống.
Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ
trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ
mả.
Tất cả chúng ta
thường cảm thấy đau buồn khi ở trong
nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự
đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một
nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống
lại đã được loan báo. Thật là phù hợp
khi tại nơi đây, một nơi dường như
cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại
của Đức Giêsu lần đầu tiên đã
được công bố.
Thông qua tiếng nói của
Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem
đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người
thân yêu của bạn tại mộ. Người chết
không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự
cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người,
nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng
đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ
được đi theo Người. Vậy đối với
người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự
huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết.
Những người thân yêu đã qua đời của
chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn
còn sống, thậm chí họ còn được sống một
cuộc sống thực sự và đẹp đẽ
hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa chúng ta. Những
người nào được chết trong ơn nghĩa
Chúa, họ không ở cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa,
mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện
cho những người thân yêu đã qua đời của
chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần
đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy
tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều
này giúp cho ký ức về họ được sống
động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại
đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng
trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy
ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi buồn của
chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm
hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống
sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều
đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia,
liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh
đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng
về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm
đường.
Cánh đồng cỏ
trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót
vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm
khắp chung quanh đó, anh không nhìn thấy một người
nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu
trời bao la, tiếng hót của những con chim chiền
chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng
chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt
nhìn lên bầu trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối
xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng
thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy
đến trong anh, diễn tả được cảm
giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ
nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và Người đã
đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói
được là mình đã quỳ gối tại đó
trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu
nói này. Nhưng sau này, anh kể “Trong ngày hôm đó và ngay tại
thời điểm đó, cuộc sống mới của
tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng bước
một, cho đến khi một lần nữa, tôi
được trở thành một con người”.
Chúng ta không thể tách
biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được
ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy
hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải qua trong
trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có
ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi
đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không
thể tách biệt sự sống lại của Đức
Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của
Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người
với nỗi đau đớn của Người. Mặc
dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi
đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái
chết của Đức Giêsu chính là cách thế
để Người đi vào trong vinh quang của Người.
Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục
Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang
trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ
đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ
môn đệ lên đường đi ra viếng mộ
Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng:
Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối
đi vào mộ?
Có một người
đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả
là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện
với ông cụ, mặc dù hai cha con chỉ sống cách xa
nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai
duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia
đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô
đơn một mình. Thế giới của ông càng ngày càng
nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi
qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý
nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về
năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết
sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng
hạn, người con trai trong câu chuyện trên có thể
lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người
cha. Bằng một lời nói hoặc một cử chỉ,
anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của
nỗi cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng
cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp
đỡ được chính bản thân mình. Đây là một
trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống,
mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho
người khác, nếu chúng ta không biết cũng tự
gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
|