Sống quyện trong nỗi chết
(Suy niệm của Lm Nguyễn Khoa Toàn)
Tôi yêu vô cùng sáng sớm Thứ Bảy Tuần
Thánh. Không gian tĩnh mịch, im lìm. Ngoài đường vắng
tiếng xe qua. Vạn vật, muôn người như
đang thiếp ngủ. Không! Vạn vật, muôn người
cơ hồ như đang chết…
Giữa ngày Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật
Phục Sinh là khoảng thời gian mà, theo lời của
Gregory Đại Đế, Chúa đã “bị dìm sâu tại
một nơi sâu thẳm nhất”. Chúa chết rồi! Chết
thật rồi! Không còn gì nữa… Chẳng còn gì nữa…Đau
đớn! Cô đơn! Nhục nhã! Ê che …
Nhưng nếu chúng ta hối hả mong cho
mau đến lễ Vọng Phục Sinh, xem cái chết của
Người vô nghĩa và chỉ hướng lòng về sự
sống lại thôi, chúng ta, theo thần học gia người
Úc Tony Kelly, đã quên đi ý nghĩa tuyệt đối của
mầu nhiệm cứu chuộc. Thà là đừng hát
Alleluia! Thà là để bàn thờ, nhà tạm tang
thương trơn trống, hơn là hấp tấp vội
vàng và không đoái hoài chiêm nghiệm đến cái chết tức
tưởi đau thương của Đức Kitô trên cây
thập giá.
Vì nếu không thể cùng chết với
Đức Kitô, chúng ta không thể cùng sống lại với
Người. Nếu không nếm khổ đau -trốn chạy
khổ đau- niềm vui Phục Sinh cơ hồ như
đã mất nhiều phần ý nghĩa. Như Sharktacos
đã suy tư:” Chỉ nhờ vào thánh giá mà tôi tìm đuợc
hy vọng trong thế giới này. Khi Chúa Giêsu kéo lê thánh giá
giữa bùn nhơ và nước bọt, Người đã
minh chứng rằng Thiên Chúa đã trọn vẹn hiểu
đuợc thực tế cuộc đời: những chồng
chất oan khiên, những triền miên thống khổ, những
khóc than không thành tiếng…”
Trong khổ đau, con người được
lớn lên bội phần. Không nếm khổ đau thì
không còn nhiều nước mắt. Không nếm khổ
đau thì không thể yêu thương…
Và vì thế, hãy mạnh dạn bắt đầu
niềm vui Phục Sinh với Tuần Thánh- tuần quan trọng
nhất trong niên lịch Phụng Vu. Những giây phút cuối
đời của Con Thiên Chúa được thuật lại
thật chi li chi tiết trong bài Thương Khó. Và chúng ta
đã nhớ đuợc những gì?
Có thể chúng ta đã không thể nhớ gì
nhưng có hai chữ và cụm chữ mà chúng ta không thể
đọc lướt và nghe thoáng qua là “Hosanna” (Thánh) và “Eli,
Eli, lema sabachthani” (Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ con).
Chưa một ai trong lịch sử cổ
kim mà cuộc đời “lên voi xuống chó” như cuộc
đời Chúa Giêsu. Mới hôm qua đây, mọi người
dân thành Giêrusalem còn cầm cành lá ôliu tung hô: Thánh! Thánh! Thánh! Vạn
tuế Con Vua Đavít, mà hôm nay Nguời lại cô thân,
đơn chiếc trần truồng nhục nhã phơi thân
trên thập tự giá. Không một ai chung quanh ủi an, cả
đến những môn đệ Người thương
yêu thân tín. Không một ai, ngoại trừ hai tên trộm vô
danh…
Nhưng như Nguyễn Công Trứ ngày
xưa lúc làm quan không cảm thấy vinh và lúc xuống lính
trơn không thấy nhục, cuộc sống chúng ta cũng
phải như thế. Khi công danh vinh quang ngập trời;
khi hạnh phúc tràn đầy; khi vật chất thừa
dư: hãy khiêm cung và đừng kênh kiệu. Và khi bất hạnh
và những bão tố cuộc đời bủa vây ập
đến, hãy thở dài như Chúa đã thở dài -không phải
một lần mà những đến hai lần. Nhưng
đừng theo ý mình mà hãy một lòng vâng theo ý Chúa.
Rồi ai trong chúng ta mà đã không một lần
qụy gối? Ai trong chúng ta mà đã không một lần lạc
lối đường về? Như Phêrô chối Thầy
mình. Và chìm đắm ngủ say không thể thức và cầu
nguyện với Người trước giờ chung cuộc.
Nhưng có cái gì đó trong Phêrô lớn hơn,
đáng nói hơn là tội chối Thầy mình. Đó là sự
thống hối. Đó là sau lần qụy ngã lịch sử
kia, biết can đảm đứng lên hối lỗi quay
về. Thật dễ dàng đồng hoá với Phêrô khi
chúng ta không thể thức và cầu nguyện cùng Thầy
Chí Thánh. Thật dễ cảm thông với Phêrô khi chúng ta chối
bỏ Người. Nhưng khó một ai có thể thẩm
thấu đuợc sự thay đổi tận gốc rể
trong con người Phêrô. Phêrô chối Chúa và Phêrô khóc lóc thảm
thiết ăn năn là hai con người hoàn toàn khác biệt.
Gà vừa gáy xong, con nguời củ Phêrô đã lột xác, mất
và tan biến đi để trở thành con người mới.
Một trong những cảnh thương tâm
và có ý nghĩa nhất trong phim “The Passion of Christ”, là cảnh
Giuđa treo cổ tự vận và Phêrô khóc lóc thảm thiết.
Một người bán Chúa; một người chối Thầy
mình. Nhưng cả hai đã phản ứng hoàn toàn trái
ngược nhau: Giuđa quẫn trí điên rồ quên
đi rằng mình vẫn còn là con cái Chúa, tìm cái chết thảm
thương vô nghĩa. Phêrô quay về, chọn Đường,
Sự Thật và Sự Sống.
Hoặc như người con hoang đàng.
F.W. Norwood đã viết rằng: “Thảm kịch lớn nhất
trong đời sống là mất Chúa và không còn nhớ đến
Người nữa.” Ở nơi xa thật xa ấy, anh ta
đã sống gần như mất Chúa. Nhưng điều
cốt lỏi là anh vẫn không quên Người. Anh vẫn
hiểu rằng tội lỗi anh, dẫu cho nhiều thật
nhiều như trăng-sao-cát-biển, vẫn không thể
nào so sánh đươc vơi tình thương vô bến bờ
của Thiên Chúa.
Henri Nouwen viết là “một trong những thử
thách lớn nhất của đời sống tâm linh là biết
nhận sự thứ tha của Chúa.” Nhiều khi phải
lên núi cao mới có thể thấy trăng sao, hoa lá. Nhiều
khi phải vào rừng già mới có thể nghe được
tiếng chim ca. Nếu muốn thấy mùa xuân, thực sự
thấy mùa xuân, chúng ta phải sống qua những mùa
đông băng tuyết đã.
Và mùa xuân đã đến. Mùa Xuân Phục
Sinh. Phục Sinh: hai tiếng nghe thật bình dị nhưng
nhân loại, từ ngày Adong và Evà bất tuân lệnh Chúa,
đã mong chờ từng phút từng giây. Phục Sinh: vạn
vật ươm mầm sống mới. Phục Sinh: Chúa
vinh thắng khải hoàn. Phục Sinh: bóng tối đã lùi
xa và sự chết không còn muôn đời thống trị.
Chúa đã Phục Sinh! Vinh hiển Phục
Sinh! Nhưng vấn đề là chúng ta đã sống tinh thần
Phục Sinh. Nói một cách khác, liệu chúng ta đã sống,
đã chuẩn bị tâm hồn cho Chúa Phục Sinh vào ngự
trị? Hay bóng tối vẫn còn đầy? Và Thần Chết
vẫn còn thống trị?
Như có một ông kia tính tình cau có mặt mày
nhăn nhó lại thêm nghi ngờ vào mầu nhiệm Phục
Sinh. Một đêm kia, ông nằm mơ gặp Chúa, liền
hỏi: “Xin Chúa chứng tỏ cho mọi nguời thấy
và hiểu việc Chúa sống lại?” Chúa liền đáp lại:
“Làm sao ta có thể chừng minh Ta từ cỏi chết sống
lại khi khuôn mặt con không phản chiếu ánh sáng và niềm
vui Phục Sinh?”
Hay như Anthony de Mello, một linh mục dòng
Tên người An Độ, nổi tiếng với nhiều
sách chuyên khảo về tâm linh, kể câu chuyện về một
con cá nhỏ đang tung tăng bơi lội.
Chợt nhiên, chú hỏi cá mẹ: “Mẹ
ơi! Thế đại dương là đâu vậy Mẹ?”
Cá mẹ trả lời đại dương là nơi mà
chú đang tung tăng bơi lội. “Nhưng đây chỉ
là ‘nước’thôi mà,” chú cá bé vùng vằng trả lời, rồi
hối hả bơi đi nơi khác tìm kiếm đại
dương.
Đôi khi chúng ta đã lãng phí qúa nhiều thời
gian về một vài vấn nạn trong đời sống
mà câu trả lời, phương thức giải quyết
nằm ngay trước mặt chúng ta. Thậm chí, thường
khi chúng ta nhìn sự vật nhưng lãng quên đi ý nghĩa
đích thực của nó. Như chú cá nhỏ kia bơi
đi tìm đại dương mà không thể hiểu rằng
đại dương chính là khối nước nó đang
bơi sống chung quanh.
Hay như Mai Đệ Liên -người đầu
tiên (phụ nữ đầu tiên)- đến ngôi mộ trống
nhưng không thể nào hiểu đựợc sự kiện
lịch sử mà mình vừa đươc diễm phúc và
vinh hạnh chứng kiến. Người thiếu phụ
họ Mai đã run rẫy vì sợ hãi: “Người ta
đã lấy xác Thầy ra khỏi mồ và tôi không biết
xác Thầy để đâu?”
Nghe như thế, cả Phêrô và Gioan, một
già một trẻ, chạy ngay đến ngôi mộ trống.
Họ hiểu điều Mai Đệ Liên không thể hiểu;
thấy được điều Mai Đệ Liên không
tài nào thấy: Chúa đã sống lại từ cỏi chết
ngay trong ngôi mồ trống…
Nói một cách khác, Mai Đệ Liên, Phêrô và Gioan
cùng chứng kiến chung một sự kiện, nhưng cả
ba phản ứng khá khác biêt nhau.
Cũng thế, hạnh phúc đời sống
chúng ta tùy thuộc cách chúng ta nhìn sự việc. Như hai
người lính già nhìn qua khung cửa bệnh viện. Một
người chỉ thấy những bức tường trắng
lạnh câm. Người kia lại nhìn thấy trăng sao
hoa lá. Và còn nghe được cả tiếng chim ca.
Gioan và Phêrô cùng đi đến mồ. Gioan
trẻ chạy nhanh hơn còn Phêrô già lập cập bước
theo sau. Nhưng có một chi tiết rất quan trọng mà
chúng ta không thể bỏ qua: Gioan chạy đến mồ
trước, nhưng không vào trong mồ. Nhưng khi Phêrô lom
khom đến, ông vào ngay trong.
Gioan trẻ, tượng trưng cho lý trí.
Phêrô già, biểu hiện cho đức tin. Chúng ta cần lý
trí để củng cố đức tin. Và đức tin
để hướng dẫn lý trí. Đức tin và lý trí cần
bổ khuyết cho nhau. Như đêm và ngày. Không thể sống
đời sống công giáo chân chính bằng những tích
lũy của một con người chậm tiến.
Ngược lại, không thể sống đời sống
văn minh có lý trí tư duy, nếu không có đức tin.
Thế hệ trẻ hôm nay có nhiều rất
nhiều cơ hội học hỏi trãi rộng tầm
nhìn. Nhưng như Gioan, họ ngập ngừng, ngại
ngùng; thậm chí, ngờ vực. Trái lại, những thế
hệ trước -lập cập như Phêrô, tuy không
được học rộng hiểu nhiều, không thep kịp
những kỷ thuật hiện đại tân tiến,
nhưng những thế hệ này đã thấy đức
tin. Và sống đức tin. Họ đã không một phút
giây e ngại, chần chờ.
Họ đến. Họ thấy. Họ tin.
Và họ sống.
|