Đấng Phục
Sinh
Một cậu
bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng
với Chúa Giêsu. Mấy ngày sau, bà
mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ
ý đau buồn khi nhắc đến đứa con
mới mất. Bé ngạc nhiên
hỏi mẹ: Khi mẹ mất
vật gì, tức là mẹ
không biết nó đang ở đâu phải không mẹ? Bà mẹ đáp:
Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ lại
nói là em
con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn
nữa, mà ý thức con mình đang vui hưởng
hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô
quả quyết:
"Nếu Chúa Kitô không sống
lại thì niềm tin của chúng ta là
điều vô ích, chúng ta
là những người khờ dại nhất vì chúng ta
tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu
bậc vĩ
nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống, đã chết và để lại cho nhân
loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng dẫn cuộc sống con người.
Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại,
chưa từng có một bậc
vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã
sống lại, duy chỉ có
một mình Chúa Giêsu là
được các tín hữu tin nhận và tuyên
xưng Đấng Phục Sinh. Nếu Chúa Giêsu không sống
lại thì cái chết của Ngài, dù có một
giá trị cao cả đến
đâu, thì cũng chỉ là một cái
chết trong muôn ngàn cái
chết của loài người, nghĩa là không
hề có giá trị cứu
rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh
không có nghĩa là hồi
sinh trở về đời sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành
Naim, em bé gái 12 tuổi,
và đặc biệt là ông
Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống
lại. Cả ba trường
hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại
với đời sống cũ. Có nghĩa là
một ngày nào đó họ
cũng phải theo cái
số phận chung của loài người là trở về
với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn
toàn khác hẳn. Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa
là Ngài hoàn
toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống lại đối với Chúa Giêsu có
nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ
đến độ
sự chết không còn chi phối
nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể
ảnh hưởng được Ngài: Ngài đến với các môn
đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện
vãn với họ, ăn uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một
số môn đệ của Chúa Giêsu đã
cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với
họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các môn
đệ Đức
Giêsu đã ra đi khắp
nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng
Ngài là Chúa
và sống theo giáo
huấn của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một nhóm
người lừa bịp bởi vì không một
kẻ lừa bịp nào chịu
lấy mạng sống của mình đeể làm chứng cho điều mình rao giảng.
Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi
dây được nối kết bằng máu và bằng những
cuộc sống phi thường của các tín hữu
Kitô ở mọi nơi và trong
mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu
trên khắp thế giới đều được
liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự
Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến
một cái gì mà khoa
học không thể kiểm chứng được. Sự Phục
sinh của Đức Giêsu quả thật không thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn
khoa học nào để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm
qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với không biết bao nhiêu sóng gió đã
xảy ra cho Giáo Hội,
nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì Giáo Hội
không thể nào tồn tại
cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu
Việt Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì
họ thực sự có Đấng
Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất mát thương
đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ
tin vào sự Phục sinh mà họ cũng
sẽ được
tham dự vào trong ngày
sau hết. Chính niềm tin ấy mang lại
ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu
bước qua tăm
tối và giúp cho họ
sống vui tươi, can đảm
và kiên nhẫn
trong mọi nghịch cảnh.
|