NGƯỠNG
SINH – TỬ
(Lễ
Vọng Phục Sinh – năm A)
Ngày
Thứ Bảy – khoảng
chơi vơi.jpg)
Thầy
không còn nữa, khốn đời con đây!
Con
cô đơn, thấy nhớ Thầy
Giờ
con mới thấm phút giây một mình
Bên
Thầy, con quá vô tình
Mất
Thầy, con mới biết mình lầm sai
Thứ
Bảy Thánh vẫn còn bao trùm sự
tĩnh lặng của Thứ Sáu Thánh.
Theo tiếng Tây Ban Nha, Thứ Bảy Thánh
gọi là Sabado Santo – viết tắt là
SS, còn tiếng Anh gọi là Holy Saturday.
Ngày này là “biên độ”
đặc biệt, rất lạ vì có
điều bất ngờ kỳ diệu: Cuộc
Vượt Qua Mầu Nhiệm của Đức
Kitô.
Trong
cuộc sống, cái gì cũng có ranh
giới, biên độ, biên giới hoặc
giới hạn. Nhưng có một loại ranh
giới “độc đáo” nhất,
vừa đáng quan ngại vừa đáng
quan tâm, đó là Ranh Giới SINH –
TỬ, cái “ngưỡng” giữa Sự
Sống và Sự Chết. Ranh giới này
rất mong manh, chỉ là một làn hơi
thở. Người ta cũng thường so sánh:
“Ngủ
và chết chỉ khác nhau hơi thở”.
Thật đúng như vậy!
Chắc
hẳn chẳng ai muốn nhắc tới sự
chết – dù chết là điều
minh nhiên và tất yếu, bởi vì
người ta cho đó là “chuyện
xui xẻo”. Các môn đệ đã
cảm thấy buồn khi nghe Ngài nói về
việc đi chịu chết, và chính
Phêrô đã lên tiếng ngăn cản
Thầy Giêsu. Không chỉ một lần mà
đã vài lần Đức Giêsu Kitô
tỏ cho các môn đệ biết rằng
Ngài PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu
nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế và kinh sư gây ra, họ
còn nộp Ngài cho dân ngoại nhạo
báng, đánh đòn và đóng
đinh vào thập giá rồi bị giết
chết, thế nhưng “ngày thứ ba Ngài
sẽ sống lại” (Mt 16:21; Mt 17:23; Mt 20:19).
Rất
hả hê khi các thượng tế và
những người Pharisêu kéo nhau đến
gặp ông Philatô, họ gọi Đức
Giêsu là “tên bịp bợm”, họ
xin ông Philatô cho lính canh mộ kỹ
càng cho đến ngày thứ ba vì họ
sợ có người đến lấy trộm
xác rồi phao tin Ngài sống lại. Thật
là mưu mô xảo trá của những
kẻ lòng lang dạ thú, chính họ
bịp bợm mà lại nói người
khác, họ gian dối nên mới hành
động lén lút. Và rồi họ
đã niêm phong tảng đá và
cắt lính canh mồ (Mt 24:62-66). Thế nhưng
cũng chỉ là dã tràng xe cát,
hoàn toàn vô ích mà thôi!
Đích
thân mấy tên lính canh đã bật
ngửa khi Đức Giêsu sống lại, ấy
thế mà họ vẫn cứng lòng. Họ
sợ sự việc này đến tai quan tổng
trấn nên đã chạy chọt và
dàn xếp với quan để mấy tên
lính canh được vô sự. Chính
mấy tên lính canh đã nhận tiền
hối lộ và làm theo lời họ là
phao tin đồng nhảm, cho rằng thi hài
Đức Kitô bị đánh cắp, và
câu chuyện này vẫn được phổ
biến giữa người Do-thái cho đến
ngày nay (Mt 28:14-15). Cả lũ lọc lừa,
thâm độc, tham nhũng và hối lộ,
từ trên xuống dưới, thật là
kinh khủng quá!
Tuy
nhiên, sự thật vẫn mãi là sự
thật, không ai có thể bóp méo
hoặc xoay hướng. Chúa Giêsu sống
lại hay chết vĩnh viễn thì thế
giới đã biết rõ. Không cần
mất thời gian tranh cãi với những kẻ
vô thần cứng lòng tin, lòng chai dạ
đá như thế: “Đối
với người tin thì không cần giải
thích, đối với người không
tin thì giải thích cũng vô ích”
(Thánh nữ Bernadette). Thánh Phaolô đã
lý giải: “Nếu
Đức Kitô không sống lại, niềm
tin của chúng ta chỉ vô ích, vì
đó là niềm tin hoang đường,
hão huyền, vô căn cứ, và chúng
ta vẫn sống trong tội lỗi”
(1 Cr 15:17). Thật vô cùng hạnh phúc
khi đức tin của chúng ta có căn
cứ rõ ràng chứ không mơ hồ,
không hão huyền, không mê tín,
và chắc chắn không hề uổng phí,
bởi vì Đức Chúa “không
phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là Thiên
Chúa của kẻ sống”
(Lc 20:38). Đó là sự thật, càng
ngày sự thật đó càng được
minh chứng cụ thể.
Bài
đọc thứ nhất là trình thuật
St 22:1-18, có đề cập “vấn đề
sinh – tử”, đó là việc ông
Áp-ra-ham vâng lời Chúa mà hiến
tế con mình làm lễ toàn thiêu
trên một ngọn núi theo lệnh Ngài
truyền. Không chần chừ, không so đo,
không tính toán, ông Áp-ra-ham dậy
sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ
và con trai I-xa-ác, ông bổ củi dùng
để đốt lễ toàn thiêu, rồi
lên đường đi tới nơi Thiên
Chúa bảo. Sang ngày thứ ba, ông
Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi
đó ở đàng xa, ông bảo đầy
tớ ở lại với con lừa, rồi đưa
con trai đi, ông bảo rồi sẽ trở
lại với họ.
Mà
sao lạ thế nhỉ? I-xa-ác không thấy
chiên để làm lễ toàn thiêu
nên hỏi cha, ông Áp-ra-ham ôn tồn
bảo rằng chiên làm lễ toàn
thiêu sẽ được chính Thiên
Chúa lo liệu, và hai cha con tiếp tục
cùng đi tới nơi Thiên Chúa đã
chỉ. Ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ
xong, xếp củi lên, rồi trói con trai
I-xa-ác lại và đặt lên đống
củi trên bàn thờ. Có điều
lạ lùng là cậu I-xa-ác vẫn
ngoan ngoãn theo lệnh cha mà không hề
thắc mắc hoặc phản đối, rõ
ràng niềm tin của người con cũng
lớn không kém niềm tin của người
cha.
Đức
tin của ông Áp-ra-ham lớn quá. Ông
không hề thắc mắc khi Thiên Chúa
bảo hiến tế chính đứa con độc
nhất, con cầu con khẩn của mình, và
hoàn toàn tín thác vào sự
quan phòng của Thiên Chúa. Một người
công chính như vậy thì thật
tuyệt vời biết bao! Và cậu I-xa-ác
là hình bóng của Đức Giêsu,
Con Một Yêu Dấu của Chúa Cha, vâng
lời cho đến chết trên Thập Giá.
Tuy
nhiên, ngay khi ông Áp-ra-ham vừa đưa
tay ra cầm lấy dao để sát tế con
mình thì sứ thần của Đức
Chúa từ trời gọi ông: “Áp-ra-ham!
Áp-ra-ham!”.
Ông thưa: “Dạ,
con đây!”.
Sứ thần nói: “Đừng
giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm
gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi
là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối
với Ta, con của ngươi, con một của
ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.
Ông Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn
thì thấy phía sau có con cừu đực
bị mắc sừng trong bụi cây. Ông
bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ
toàn thiêu thay cho con mình. Đúng là
Thiên Chúa sẽ lo liệu như ông đã
nói, và ông đặt tên cho nơi
đó là “Đức Chúa sẽ
liệu”. Từ đó có câu: “Trên
núi Đức Chúa sẽ liệu”.
Sứ
thần của Đức Chúa từ trời
gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa và
nói: “Đây
là sấm ngôn của Đức Chúa,
Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì
ngươi đã làm điều đó,
đã không tiếc con của ngươi,
con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân
giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho
dòng dõi ngươi nên đông, nên
nhiều như sao trên bầu trời, như
cát ngoài bãi biển. Dòng dõi
ngươi sẽ chiếm được thành
trì của địch. Mọi dân tộc
trên mặt đất sẽ cầu chúc
cho nhau được phúc như dòng dõi
ngươi, chính bởi vì ngươi đã
vâng lời Ta”.
Ôi,
đức tin của ông Áp-ra-ham lớn lao
và sâu xa quá: Sẵn sàng ra đi
đến miền đất Chúa chỉ cho và
không ngại hiến tế chính con yêu
dấu của mình. Và niềm tin tuyệt
đối của ông đã được
Thiên Chúa bù đắp xứng đáng!
Ông
vững tin vì ông biết địa cầu
này đầy ân sủng của Thiên
Chúa, chắc chắn ở đâu có
Chúa là có bình an và hạnh
phúc. Đúng như Thánh Vịnh gia đã
tin tưởng khi xác nhận: “Lời
Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi
việc Chúa làm đều đáng cậy
tin. Chúa yêu thích điều công
minh chính trực, tình thương Chúa
chan hoà mặt đất. Một lời Chúa
phán làm ra chín tầng trời, một
hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh
tú. Chúa dồn đại dương về
một chỗ, Người đem biển cả
trữ vào kho”
(Tv 33:4-7).
Thật
đúng là “hạnh phúc thay quốc
gia được Chúa làm Chúa Tể,
hạnh phúc thay dân nào Người
chọn làm gia nghiệp, và từ trời
cao nhìn xuống, Chúa thấy hết mọi
người” (Tv 33:12-13). Thiên-Chúa-của-người-sống
là kho báu mà mọi người mơ
ước và cầu mong: “Tâm
hồn chúng tôi đợi trông Chúa,
bởi Người luôn che chở phù trì.
Vâng, có Người, chúng tôi mừng
rỡ, vì hằng tin tưởng ở Thánh
Danh. Xin đổ tình thương xuống
chúng con, lạy Chúa, như chúng con
hằng trông cậy nơi Ngài”
(Tv 33:20-22).
Biên
độ sinh – tử mong manh lắm, nhưng
cái “ngưỡng” đó lại
là một hành trình dài, là
cuộc xuất hành đầy gian nan, và
là cuộc vượt qua đầy thử
thách cam go.
Thuở
xưa, khi dân chúng kêu xin, chính Đức
Chúa đã tuyên phán với ông
Mô-sê: “Có
gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo
con cái Ít-ra-en cứ nhổ trại. Phần
ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên
mặt biển, rẽ nước ra cho có lối
đi khô ráo ngay giữa lòng biển,
để con cái Ít-ra-en đi vào. Còn
Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập
ra chai đá. Chúng sẽ tiến vào
theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ
được vẻ vang hiển hách khi đánh
bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân
lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy.
Người Ai-cập sẽ biết rằng chính
Ta là Đức Chúa, khi Ta được
vẻ vang hiển hách vì đã đánh
bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ
binh của vua ấy”
(Xh 14:15-18).
Thiên
sứ của Thiên Chúa đang đi trước
hàng ngũ Ít-ra-en, cột mây bỏ
phía trước mà đứng về phía
sau, chen vào giữa hàng ngũ Ai-cập và
hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả
mịt mù, bên này, mây lại sáng
soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt
đêm không xáp lại gần nhau được.
Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển,
Đức Chúa cho một cơn gió đông
thổi mạnh suốt đêm, dồn biển
lại, khiến biển hoá thành đất
khô cạn. Nước biển rẽ ra, và
con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng
biển khô cạn, nước sừng sững
như tường thành hai bên. Dân
Ít-ra-en đi qua, còn quân Ai-cập chịu
thất bại ê chề. Đó là cuộc
giải phóng thần kỳ với thế cờ
lật ngược. Chỉ có Thiên Chúa
mới khả dĩ làm được như
vậy. Dân Ít-ra-en thấy Đức Chúa
đã ra tay hùng mạnh đánh quân
Ai-cập nên đồng tâm nhất trí
kính sợ Đức Chúa, tín thác
vào Đức Chúa và tin tưởng
vào ông Mô-sê..jpg)
Và
bấy giờ, ông Mô-sê cùng với
con cái Ít-ra-en vang lời hát mừng
Đức Chúa: “Chúa
là sức mạnh tôi, là Đấng
tôi ca ngợi, chính Người cứu độ
tôi. Người là Chúa tôi thờ,
xin dâng lời vinh chúc, Người là
Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán
tụng. Lạy Chúa, tay hữu Ngài đã
biểu dương sức mạnh, đã
nghiền nát địch quân. Người
cho
dân tiến vào định cư họ trên
núi gia nghiệp của Người. Lạy
Chúa, chính nơi đây Người
chọn làm chỗ ở, đây cũng là
đền thánh tự tay Người lập
nên. Chúa là vua hiển trị đến
muôn thuở muôn đời”
(Xh 15:1-6, 17-18).
Trong
cuộc sống, nước là chất thiết
yếu. Nước rất mềm yếu nhưng
cũng rất mạnh mẽ. Nước rửa
sạch ô uế, nước gội mát
muôn vật, làm cho mọi vật hồi
sinh. Nước rất cần thiết trong sinh hoạt
thường nhật. Thiếu nước thì
người ta mau chết hơn là thiếu đồ
ăn. Nước là biểu hiện của sự
sống. Nước rất kỳ diệu!
Nước
tự nhiên mà còn kỳ diệu đến
thế huống chi nước tâm linh. Thánh
Phaolô nói: “Anh
em không biết rằng khi chúng ta được
dìm vào nước thanh tẩy, để
thuộc về Đức Kitô Giêsu, là
chúng ta được dìm vào trong cái
chết của Người sao? Vì được
dìm vào trong cái chết của Người,
chúng ta đã cùng được mai
táng với Người. Bởi thế, cũng
như Người đã được sống
lại từ cõi chết nhờ quyền năng
vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng
được sống một đời sống
mới”
(Rm 6:3-4).
Nói
về ngưỡng sinh – tử, Thánh Phaolô
nói: “Vì
chúng ta đã nên một với Đức
Kitô nhờ được chết như Người
đã chết, chúng ta cũng sẽ nên
một với Người, nhờ được
sống lại như Người đã sống
lại. Chúng ta biết rằng: con người
cũ nơi chúng ta đã bị đóng
đinh vào thập giá với Đức
Kitô, như vậy, con người do tội lỗi
thống trị đã bị huỷ diệt,
để chúng ta không còn làm nô
lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai
đã chết thì thoát khỏi quyền
của tội lỗi”
(Rm 6:5-7). Thật kỳ diệu với cái vòng
sinh – tử như vậy!
Kinh
Thánh cho biết rạch ròi: “Nếu
chúng ta đã cùng chết với Đức
Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống
với Người: đó là niềm tin
của chúng ta”
(Rm 6:8). Niềm tin đó hoàn toàn chính
xác, không hề luống công vô ích.
Thật vậy, Thánh Phaolô nhắn nhủ:
“Một
khi Đức Kitô đã sống lại từ
cõi chết thì không bao giờ Người
chết nữa, cái chết chẳng còn
quyền chi đối với Người. Người
đã chết, là chết đối với
tội lỗi, và một lần là đủ.
Nay Người sống, là sống cho Thiên
Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình
như đã chết đối với tội
lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa,
trong Đức Kitô Giêsu”
(Rm 6:9-11).
Được
thừa kế niềm tin đó, Thánh Vịnh
gia tha thiết mời gọi mọi người:
“Hãy
tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương”
(Tv 118:1-2). Tại sao như vậy? Lý do rất
minh nhiên: “Tay
hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay
hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã
ra oai thần lực. Tôi không phải chết,
nhưng tôi sẽ sống, để loan báo
những công việc Chúa làm”
(Tv 118:16-17).
Chính
Đức Kitô là “tảng đá
thợ xây nhà loại bỏ lại trở
nên đá tảng góc tường”
(Tv 118:22). Ngài đã bị người ta
nhẫn tâm giết chết nhục nhã, oan
sai, và người ta tưởng làm như
vậy là chấm dứt lịch sử, thế
nhưng Ngài đã lật ngược thế
trận, Ngài đã chiến thắng tử
thần và đã phục sinh vinh quang. Đó
chính là công trình của Chúa,
công trình vô cùng kỳ diệu
trước con mắt phàm nhân chúng
ta. Và chắc chắn rằng, từ thuở
hồng hoang cho tới tận thế, không một
thần linh nào khác có thể sống
lại như Chúa Giêsu của chúng ta.
Trình
thuật Tin Mừng Mt 28:1-10 nói về khoảnh
khắc lịch sử độc nhất vô nhị
trên thế gian này, với lời kể
ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ,
súc tích.
Sau
ngày sa-bát, vừa tảng sáng ngày
thứ nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la
và một bà khác cũng tên là
Ma-ri-a cùng đi viếng mộ. Thình lình
đất rung chuyển dữ dội: Thiên thần
Chúa từ trời xuống, đến lăn
tảng đá ra, rồi ngồi lên trên,
diện mạo người như ánh chớp
và y phục trắng như tuyết. Thấy
vậy, tụi lính canh khiếp sợ và
run rẩy đến nỗi chết ngất đi.
Ấy thế mà họ vẫn cứng lòng
tin còn hơn sáp nguội!
Tại
ngôi mộ trống, thiên thần động
viên các phụ nữ “đừng sợ!”,
và cho họ biết rằng Đức Kitô
đã sống lại như Ngài đã
nói trước. Các bà đến mà
xem chỗ Ngài đã nằm, rồi mau mắn
về báo tin mừng và bảo các
tông đồ đến Ga-li-lê để
được diện kiến Thầy Giêsu.
Các bà vội vã rời khỏi mộ,
tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi
vui mừng, chạy về báo Tin Mừng Phục
Sinh.
Chúng
ta cần phải học tập từ các phụ
nữ về hai điều này: Mau mắn loan
báo
Tin Mừng và làm
chứng
về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong
khi các phụ nữ này đang trên
đường đi, Đức Giêsu đã
đón gặp họ và nói: “Chào
chị em!”.
Các bà khoái chí hết sức nên
đua nhau tiến lại gần Ngài, bái
lạy Ngài và muốn ôm lấy chân
Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu nói
với họ: “Chị
em đừng sợ! Về báo cho anh em của
Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ
sẽ được thấy Thầy ở đó”
(Mt 28:10). Các phụ nữ đó là
những người đầu tiên được
diện kiến Đấng Phục Sinh và trở
thành các nhân chứng sống đầu
tiên về Chúa Giêsu Phục Sinh.
Có
hai chữ quan trọng chúng ta phải ghi nhớ
và thực hành trong cuộc sống: ĐỪNG
SỢ! Đó là một mệnh lệnh
đòi hỏi phải có lòng can đảm
thực sự, bởi vì điều đó
không dễ thực hiện. Vì thế mà
ai cũng phải cố gắng không ngừng,
từng giây phút theo từng nhịp thở.
Tương tự biên độ sinh – tử,
biên độ giữa sự can đảm và
sự hèn nhát cũng rất mong manh. Bởi
vậy, lúc nào chúng ta cũng phải
tự nhủ như niệm thần chú: ĐỪNG
SỢ!
Và
đó cũng là lời động viên
rất quan trọng được Kinh Thánh đề
cập nhiều lần: St
15:1; St 21:17-18; St 26:23-24; St 35:16-17; St 43:23; St 46:1-4; St
50:18-21; Xh 14:13; Đnl 31:6; Is 41:10; Is 41:13; Is 43:1; Is
43:13; Gr
46:27-28; Gr 51:46; Mt
10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc
5:36; Mc 6:50; Ga 14:27; Lc 1:13;Lc 1:30; Lc 2:10; Lc 5:10; Lc 12:4;
Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20; Ga 14:27; Kh 1:17-18.
SINH
để TỬ, CHẾT để SỐNG, đó
là triết-lý-sống của Kitô giáo,
chắc chắn người vô thần – và
một số tôn giáo khác – không
thể nào hiểu nổi cái “ngưỡng”
độc đáo như vậy. Chúa Giêsu
là Thiên Chúa, là Đấng tạo
dựng vũ trụ và là sự sống,
cái chết của Ngài chỉ là cái
chết về nhân tính, chứ thần
tính của Ngài KHÔNG THỂ CHẾT.
Và giờ đây, lời Chúa Giêsu
tiên báo đã ứng nghiệm, tất
cả chúng ta cùng hân hoan ca vang:
ALLELUIA, CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
RỒI!
Lạy
Thiên Chúa hằng hữu và hằng
sinh, xin củng cố ba nhân đức đối
thần và thêm lòng can đảm cho
con, xin giúp con sẵn sàng và mau mắn
làm chứng về sự thật, về Tin
Mừng Phục Sinh trong suốt cuộc sống của
con, theo hoàn cảnh sống hữu hạn của
con, mọi nơi và mọi lúc. Con cầu
xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục
Sinh, Đấng cứu độ nhân loại.
Amen.
TRẦM
THIÊN THU
|