Linh mục Joseph OTTE, là một thành viên của Dòng Máu Cực Thánh Chúa Giêsu. Ngài đã về hưu và sống tại Giáo phận Santa Rosa, California.
Sau khi tôi phục vụ 50 năm trong đời sống Linh mục, tôi đã nhìn rất nhiều bạn bè và thân nhân đi về nhà Chúa, tôi chợt suy nghĩ rất nhiều về đời sống của tôi. Tôi cảm tạ Chúa về những kinh nghiệm và những người cùng đi với tôi. Tôi đặc biệt cảm ơn Thiên Chúa vì Ngài đã dẫn dắt tôi đi trong suốt cuộc đời tôi. Tôi đã cảm nhận được tình yêu sâu đậm mà Ngài dành cho tôi là con của Ngài. Tuy vậy, tôi trở thành Linh mục rất lâu trước khi cảm nhận được tình yêu thân mật của Ngài dành cho tôi.
Khi tôi còn nhỏ, tôi luôn luôn cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Mẹ tôi luôn lần khoảng bốn hay năm chuỗi tràng hạt mỗi ngày trong lúc phải săn sóc cho chồng con. Tôi là con lớn nhất trong mười người con. Tôi luôn tin tưởng rằng lời cầu nguyện của tôi được đáp lời vì tôi tin vào lời cầu bầu của Mẹ Maria. Trong suốt cuộc sống tôi, Mẹ của Chúa Giêsu đã đóng một vị trí quan trọng.
Tôi chào đời tại Cincinnati, Ohio vào ngày 12 tháng 5 năm 1904, đúng ngày Lễ Thăng Thiên. Tôi phải đợi 79 năm để thấy ngày sinh nhật của tôi lại trùng hợp với Lễ Thăng Thiên lần nữa. Ba tôi là một người bán bia, nặng 210 pounds, ông rất cởi mở, nồng ấm và rộng lượng. Khi ba tôi lái xe vận tải đi về từ Cincinnati, ông thường đón những người lạc đường và mời họ về nhà ăn cơm với gia đình tôi. Ký ức non nớt của tôi ghi nhớ hình ảnh những người lạc đường thường đến nhà và đi khỏi nhà tôi, tự do ăn uống trong một gia đình người Đức dễ dãi và thân thiện. Chính vì vậy mà tôi luôn thấy dễ dàng khi ở chung quanh những người lạ.
Khi tôi lên sáu, tôi suýt chết vì bệnh yết hầu. Em gái tôi, Helen đã chết vì bệnh này khi em mới bốn tuổi. Khi gia đình đưa xác em đi chôn ở nghĩa trang, ba mẹ tôi nghĩ là lúc về nhà sẽ lại nhìn thấy tôi chết. Cũng trong năm đó, tôi vào học lớp một. Tôi lập tức trở về nhà và nói cho ba mẹ tôi rằng tôi không thích đi học nữa. Tôi còn nhớ tôi leo vào lòng ba tôi và nói với ba rằng tôi không thích đi học. Ba tôi ôm choàng lấy tôi và nói:
–Được rồi, đợi sang năm cũng được. Con sẽ đi học lúc 7 tuổi.
Vì thế, tôi vào lớp một khi tôi lên 7 tuổi. Thế rồi tôi học nhảy lớp năm và học chung với những người cùng một lứa tuổi với tôi. Lúc ấy tôi rất cảm ơn ba tôi vì ông luôn thương yêu và hiểu biết nhu cầu của tôi.
Khi tôi lên 10 tuổi, tôi bị khủng hoảng tinh thần trước tin ba tôi chết. Thảm kịch này làm tôi đau đớn đến nỗi tôi trở thành cà lăm trong suốt 24 năm trời, cho đến khi tôi được truyền chức Linh mục. Lúc ba tôi nằm đợi chết vì bệnh phổi ở trong nhà thương thì có một nữ tu Dòng Phanxicô thường đến săn sóc. Một hôm, khi tôi đang ngồi cạnh giường bệnh của ba tôi, bà sơ này bảo tôi rằng bà sẽ cầu nguyện đêm ngày cho tôi để tôi trở thành Linh mục. Thật là buồn cười! Bệnh cà lăm kinh niên của tôi chấm dứt trong ngày lễ Truyền chức của tôi. Cuộc đời tôi phát triển hai mặt cùng một lúc. Một mặt, tôi được tiếp xúc với những người ngoan đạo nên họ đã ảnh hưởng tốt đến tôi và cho tôi một nền tảng tốt. Một mặt khác, tôi lại phát triển khả năng là một người tổ chức các đoàn thể.
Khi tôi được 8 tuổi, tôi được mướn để làm người đi thu tiền nợ cho một chợ. Nếu tôi đòi được món nợ nào thì tôi sẽ được 50% số tiền mà tôi đòi được. Nhiều người đã trả nợ vì thằng bé lầm lỳ cứ đến gõ cửa nhà họ mãi. Tôi có nhiều việc làm: từ người đi thu tiền chợ đến người bán các báo dài hạn, người tổ chức các đội Hướng đạo và người thuê mướn phòng ốc cho các cuộc dạ vũ khi tôi chỉ mới 13 tuổi. Một mùa hè, tôi được huấn luyện quân sự và trở thành một thiện xạ.
Sau khi ba tôi chết, tôi trở thành một người đàn ông của gia đình trong ba năm sau đó. Rồi việc mẹ tôi tái giá làm cho tôi khổ sở, tôi phải cố gắng rất lâu mới làm quen được với vị trí là người đàn ông thứ hai của gia đình.
Hồi ấy, người ta chỉ đòi hỏi việc cưỡng bách giáo dục ở lớp 8 thôi, mãi đến khi tôi được 23 tuổi, tôi mới có thể học trung học được. Đó cũng là thời khủng hoảng kinh tế, gia đình tôi nghèo, lương thực thiếu thốn. Chủ trương của gia đình tôi là: "Thánh Antôn sẽ cung cấp cho." Chúng tôi luôn cố gắng để có đủ đồ ăn trong bữa cơm.
Vào tuổi 14, tôi bắt đầu làm việc từ 8 giờ sáng đến 10 giờ đêm. Lương của tôi là 60 Mỹ kim một tháng, dần dần lên đến 80 Mỹ kim một tháng. Tôi làm việc với tính cách là người giữ lương và tiền tiết kiệm, với trách nhiệm là giữ một quỹ gần 250 Mỹ kim trong ít năm. Có lần tôi đã nghĩ rằng mình nên lấy luôn số tiền và trốn sang Mễ-Tây-Cơ. Cơ hội tẩu thoát rất dễ dàng, nhưng lương tâm tôi không cho phép. Dần dà, tôi nghỉ việc để kiếm một chức vụ kế toán viên của một công ty làm dao. Người ta trả tôi 100 Mỹ kim một tháng. Tôi muốn được trả 25 Mỹ kim một tuần. Và người ta nhận tôi làm việc. Tôi rất chú trọng đến việc học nên đã đi học ban đêm để học hỏi thêm. Hình như Chúa cho tôi có tài về thương mại và tài chánh.
Tôi có một vị Linh hướng đã ảnh hưởng rất nhiều trong đời sống tôi. Qua Ngài, tôi biết rất nhiều Linh mục và tu sĩ tại Dòng Phanxicô. Ngài giúp tôi phát triển lối suy nghĩ và phần tâm linh. Tôi còn nhớ một lần khi tôi mới 14 tuổi, Ngài cho tôi một cuốn sách nhỏ nói về Ơn Thiên Triệu để làm Linh mục, nhưng tôi dấu trong bàn giấy và không bao giờ đọc cả. Ngày xưa mẹ tôi cũng tu ở Dòng Phanxicô, và tôi cũng tới lui sinh hoạt hội đoàn của Dòng Phanxicô ở Cincinnati. Vì thế, những ảnh hưởng của Dòng tu này đã thâm nhập đời sống tôi và làm cho tâm linh tôi lớn mạnh.
Tôi thường rất thích giao thiệp. Tôi dọn nhà ra ở riêng và tham dự các hội dành cho đàn ông. Lúc ấy tôi làm dược nhiều tiền hơn những người đàn ông có gia đình đông con. Tôi cũng rất nhẹ dạ. Tôi có bạn gái mới mỗi tuần, và đi chơi, đi nhảy hàng đêm. Tôi rất thiện nghệ trong các lối nhảy đầm, nhất là kiểu Charleston và Tango, tôi cũng nhảy Valse rất bay bướm.
Thế nhưng tôi càng ngày càng cảm thấy chán chường. Tôi tiếp tục đi học ban đêm để có những công việc làm nhiều tiền hơn, để trội hơn những người khác. Nhưng bên trong những hào quang ấy là sự bất ổn và bất mãn. Tôi bắt đầu đi lễ hàng ngày và chịu Bí Tích Mình Thánh Chúa để tìm kiếm lối đi và mục đích của cuộc sống.
Một ngày trong 40 giờ tâm niệm, tôi quỳ trước Thánh Thể để cầu nguyện. Đó là lần đầu tiên tôi nhận thức được Chúa đang nói với tôi. Ngài nói trong tâm linh của tôi:
–Con muốn nhiều hơn là sự học vấn. Con muốn trở thành Linh mục.
Tôi trả lời:
–Thật vậy không? Ngài quả quyết:
–Đúng như vậy. Trái tim tôi đáp ứng lời nói đó.
Tôi bắt đầu chuẩn bị để vào Chủng viện. Tôi biết rõ và thương yêu những người tu sĩ Dòng Phanxicô, nhưng không biết mình có thể đi xa hơn với lời thề sống khó nghèo. Thật vậy, đó là điều khó khăn. Phải rời bỏ đời sống có công việc tốt đã là một sự khó khăn rồi. Tôi chợt nghĩ có lẽ mình nên trở thành Linh mục Dòng Máu Thánh Chúa Giêsu thì tốt hơn vì không có lời thề hứa sống khó nghèo. Điều này dễ thực hiện hơn. Thay vào đó, Dòng này có một tình thương yêu gắn bó với nhau.
Ai cũng ngăn cản tôi rằng tôi không thể làm Linh mục được. Họ đều biết là tôi mê gái và mê nhảy đầm. Thế nhưng tôi đã được truyền chức Linh mục vào ngày 01 tháng 5 năm 1938 và tôi không hề có giây phút nào muốn rời chức Linh mục trong những thời gian ấy.
Tôi còn nhớ khi tôi vừa muốn đi tu làm Linh mục, tôi sợ rằng tật cà lăm của tôi sẽ là một trở ngại lớn. Nhưng các vị bề trên lại không cho đó là điều quan trọng. Như tôi đã nói, khi tôi được truyền chức Linh mục thì Chúa đã chữa lành tật cà lăm cho tôi, sau 24 năm bị bệnh vì đau đớn bởi cái chết của ba tôi. Mãi đến khi tôi gia nhập Phong Trào Canh Tân Đặc Sủng nhiều năm sau đó, tôi mới biết rằng Chúa chữa lành mọi sự trong đời sống hàng ngày của mỗi con người.
Tôi nghĩ rằng khi tôi trở thành Linh mục thì tôi sẽ quên hết chuyện đời, nhưng sau này tôi mới khám phá ra rằng những năm tôi được huấn luyện chỉ là sự khởi đầu mà thôi. Trong hai nhiệm vụ làm Cha Chánh xứ, tôi lập tức thi hành việc của một Cha xứ. Tôi đã liên lạc với rất nhiều người, từ thượng lưu đến kẻ nghèo. Với ai tôi cũng thấy thoải mái. Cùng với việc Giáo xứ, tôi còn dạy Giáo lý cho các trẻ từ 6 đến 18 tuổi, đủ trình độ, tôi trở thành một thủ quỹ cho cộng đồng của tôi. Thế rồi vị bề trên của tôi gởi tôi đi học thêm ở Đại học Michigan để lấy một bằng cấp về Quản trị thương mại. Tôi chỉ muốn đi học về triết học và tôn giáo, nhưng tôi không được quyền chọn lựa. Tôi chưa học những lớp chuẩn bị để vào trường, nhưng trường vẫn nhận tôi vào học. Tôi lập tức học rất mau về kinh tế học, quản trị tiền bạc, quản trị ngân hàng, và sau đó trở thành người chấm bài giùm cho các giáo sư và viết những đề thi giùm học về xí nghiệp nghiệp này, và thường được mời đến tham dự những cuộc thảo luận ở trong nội bộ giáo sư. Tôi được sinh ra để thảo luận, để cuối cùng đi đến tôn giáo và đến những cuộc thảo luận sống động.
Sau khi tốt nghiệp, tôi làm việc với tính cách thủ quỹ cho Đại học St Joseph ở Indiana. Người ta bèn tặng cho tôi cái tên "ông Cha nhỏ bé có một cú đấm mạnh" vì tôi sắp xếp, thay đổi, phát triển một hệ thống làm việc mới và thường hay lo những vấn đề tài chánh cho Đại học này. Tôi thay đổi nhiều định chế của các khoa khác. Tôi sắp xếp lại chương trình thực phẩm và tranh đấu để Đại học này được chấp nhận trong những tình huống khó khăn. Tôi ở đó được 25 năm.
Năm 1965, tôi đổi về California, tôi bắt đầu bị bịnh hoạn đau ốm. Tôi đành rời California để đến giúp cho người anh họ của tôi lúc ấy là Giám mục tại Phoenix. Ngài biết tôi là người có tài tổ chức nên tôi giúp Ngài thành lập 20 đoàn thể trong Giáo phận của Ngài, nhất là những chương trình cho người già. Tôi trở về California sau một năm rưỡi và sống tại Dòng Máu Cực Thánh Chúa ở East Palo Alto. Cũng tại đó, tôi tham dự Phong trào Canh Tân Đặc Sủng.
Sau khi tôi ở giáo xứ ấy vào khoảng một tháng, Cha chánh xứ mời tôi tới trong nhóm cầu nguyện với Ngài. Khi tôi hỏi Ngài nhóm cầu nguyện làm những gì thì Ngài mời tôi đến tìm hiểu.
Điều vui nhất là sau buổi cầu nguyện, cả đám chúng tôi kéo nhau đi ăn. Tôi có óc khôi hài nên làm mọi người cười vui. Tôi không biết gì nhiều về nhóm cầu nguyện và cũng không để ý tìm hiểu về họ.
Những người trưởng nhóm bắt đầu cuộc hội thảo gọi là "Đời Sống Trong Ơn Chúa Thánh Linh" để hướng dẫn cho mọi người chuẩn bị được Thanh Tẩy trong Chúa Thánh Linh. Họ giảng về những Đặc Sủng của Chúa Thánh Linh được kể trong I Corintô đoạn 12 câu 7-9. Họ nói về Đặc Sủng Ơn Tiếng Lạ, Ơn Tiên Tri, Ơn Hiểu Biết, Ơn Phân Biện Thần khí, Ơn Chữa Lành... Tôi còn nhớ tôi xin Chúa cho Ơn Chữa Lành nhưng đừng cho tôi Ơn Tiếng Lạ. Đến cuối buổi hội thảo, họ đặt tay cầu nguyện cho tôi để được Thánh Tẩy trong Chúa Thánh Linh. Tôi giả đò nói tiếng lạ nhưng thực sự tôi nói tiếng La-Tinh. Rồi tôi phải xưng tội vì giả đò. Tôi vẫn đùa giỡn chọc họ về những việc này. Tôi kể cho các bạn nghe, Chúa có óc khôi hài, nhưng không phải lối khôi hài mà tôi đã làm. Cuối cùng tôi bật dậy và xin: "Lạy Chúa, cho con Ơn Tiếng Lạ." Phải đợi đến một năm rưỡi sau, Ngài mới chịu ban ơn này cho tôi.
Ơn Tiếng Lạ rất quan trọng cho tôi. Nhiều khi tôi giận dữ, tôi chỉ cần cầu nguyện bằng Tiếng lạ là cơn giận biến mất ngay. Và khi tôi không biết cầu cho người nào đó, tôi chỉ cần cầu bằng Tiếng Lạ. Tôi rất quý trọng Ơn Tiếng Lạ này.
Vào mùa thu năm 1973, tôi khởi sự biết rõ về Chúa Thánh Linh. Tôi không có cảm nghiệm gì khác lạ cho lắm. Từ trước đến nay, tôi đã được học tập nhiều về sự thánh thiện của Chúa Giêsu. Tôi biết rất nhiều về Ngài, nhưng tôi không biết Ngài một cách riêng tư. Ngài đã trở thành một người bạn tôi biết và là Người biết tôi.
Sau 35 năm làm Linh mục, tôi thật sự biết Ngài. Đây là sự thay đổi nội tâm sâu đậm mà có thể người khác không thấy rõ được. Tôi thấy nền tảng suy nghĩ của tôi thay đổi rất nhiều. Nhưng trong đời sống, tôi muốn diễn tả đó là một tiến trình biến hóa.
Tôi bắt đầu nhận ra trong tâm hồn tôi có nhiều rác rưởi cần được tỉa và liệng ra ngoài. Tôi đã làm nhiều người đau lòng và giận hờn trong quá khứ, và Chúa muốn lách vào trong những ký ức ấy để chữa lành. Tôi bắt đầu cảm thấy Chúa lo lắng, săn sóc cả những chi tiết nhỏ trong đời sống của tôi. Ngài cho tôi biết có những người thật sự quan tâm đến tôi. Từ đó trở đi, tôi trở thành một người cầu xin cho người khác, chứ không phải bảo người khác cầu nguyện. Tôi không phải là người có thói quen cầu nguyện liên lỉ. Tôi dạy người ta cách cầu nguyện và để người ta cầu cho tôi. Chủ trương của tôi trong những năm còn trẻ là: " Tôi làm mọi sự còn anh cầu nguyện." Dần dà, tôi nhận ra rằng tôi có thể ở trong nhà nguyện ba tiếng đồng hồ trong lúc trước đây tôi chỉ có thể ở 15 phút mà thôi.
Tất cả những sự thay đổi sâu đậm này đã biến đổi tôi. Đây là một cuộc thay đổi nhẹ nhàng. Chúa Thánh Linh làm cho việc giảng dạy trong nhà thờ trở nên sống động, thực sự và mật thiết hơn, bởi vì đó là sự tương quan với chính Chúa Giêsu.
Vào mùa hè năm 1974, tôi tham dự Đại hội Canh Tân tại Notre Dame ở Indiana. Vào khoảng 35 ngàn người tham dự, với 8 Giám mục và 600 Linh mục. Thật là một quang cảnh cảm động. Một kinh nghiệm tuyệt vời và có ý nghĩa, và tôi được học hỏi thêm nữa.
Trong một khoảng thời gian, tôi tham dự những khóa huấn luyện từ các Linh mục và nhóm cầu nguyện qua Dòng Carmelites ở San Rafael, California và ở Dòng Chúa Cứu Thế ở Oakland, California. Những người này có kinh nghiệm về việc xin ơn chữa lành cho mọi người và xin trừ tà khí. Tôi bắt đầu nhận được Đặc Sủng Phân Biện Thần khí và phát triển khả năng để nghe Chúa giảng dạy. Tôi không nhận được bản tin, nhưng nhận được những lời nói rõ ràng. Tôi cũng không có thị kiến. Nhưng tôi dần dần biết được tiếng của Ngài, bởi vì tôi biết Ngài.
Trong những cuộc huấn luyện này, tôi muốn đi học thêm về tâm lý học. Một phụ nữ trong nhóm Canh Tân Đặc Sủng có bằng tiến sĩ về khải đạo đã khuyến khích tôi nên chú tâm để nghe lời giảng dạy trực tiếp của Chúa. Với khả năng của tôi, đó là lời mà tôi cần nghe.
Một lần tôi đi dự khóa tĩnh tâm ở vùng Sugarpine thuộc miền rừng núi của California với một nhóm mà tôi rất thán phục vì họ có những tư tưởng hay trong đầu óc. Khi tôi ngồi lắng nghe họ nói, tôi cảm thấy Chúa dạy tôi:
–Đừng lệ thuộc họ, hãy lắng nghe Ta.
Ngay sau lời Chúa nói đó, có một sự thay đổi và tôi phải đứng lên giảng một bài. Tôi rất kinh ngạc về những điều tôi nói và ngạc nhiên về những điều tôi biết.
Tôi đổi từ East Palo Alto để đến Santa Rosa để giúp đỡ các sơ Ursuline. Nhưng rồi tôi lại phải đi tới đi lui giữa hai nơi này. Một vị Linh mục bạn chuẩn bị điều động buổi tĩnh tâm ở Palo Alto nhưng Ngài không thể đến được. Ngài nhờ tôi tới đó thay Ngài điều động buổi tĩnh tâm. Tôi không biết Ngài muốn nói gì trong buổi tĩnh tâm ấy. Trong suốt cuộc đời làm linh mục, tôi không bao giờ điều động buổi tĩnh tâm vì tôi chỉ lo chuyện hành chánh tài chánh mà thôi. Đây là một kinh nghiệm mới mẻ cho tôi. Sau khóa tĩnh tâm, tôi bắt đầu tổ chức tĩnh tâm 5 hay 6 lần ở cùng địa điểm ấy. Tôi viết ra những bài giảng một cách cẩn thận, nhưng mỗi lần, cho dù chủ đề vẫn là một, nhưng cách nói đều khác nhau. Tôi cầu nguyện rất nhiều trước các buổi cầu nguyện và bài giảng thích hợp cho 80% số người đến tham dự.
Cánh cửa mở rộng cho tôi khi một số ít người Phi-Luật-Tân mang một người bệnh đến cho tôi. Họ từ vùng Sunnyvale đến vùng Santa Rosa để xin tôi cầu cho người này. Họ bắt đầu đến hàng tuần để cầu nguyện. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhóm nhỏ này trở thành 70 người. Bề trên Giám tỉnh của tôi đề nghị rằng thay vì 70 người đến với tôi, tôi nên đến với họ thì tốt hơn. Mỗi lần lái xe dài 2 tiếng. Tôi nghĩ họ và tôi gắn liền bằng lời cầu nguyện, bởi vì họ làm tôi rất bận rộn. Tôi đến nhà một bà Phi-Luật-Tân, tưởng rằng sẽ được nghỉ ngơi sau đó, ai dè bà ta đã có khoảng 50 người chờ được tôi cầu nguyện cho, và sau đó là một bữa tiệc thịnh soạn.
Tôi bắt đầu nghĩ đến việc cầu nguyện để dâng những Thánh lễ chữa lành trong các nhà thờ khác nhau ở vùng vịnh San Francisco. Tôi nhớ rằng tôi đã hỏi Chúa có phải đây là ý riêng của tôi hay không vì tôi cứ làm mọi việc theo ý tôi suốt đời rồi. Chúa hỏi:
–Đây có phải là những ý tưởng tốt không? Tôi nói:
–Dạ đúng, đó là những ý tưởng tốt.
Vì thế, Chúa nói:
–Tại sao con lại phàn nàn? Cha cho con tất cả những gì con có. Đừng quan tâm nếu con phải làm mọi sự theo ý con.
Chúa nói với tôi rằng tôi cũng có thể có ý riêng của mình vì Ngài đã huấn luyện tôi bao nhiêu năm nay rồi. Tôi bắt đầu yên tâm khi nghĩ rằng đó là ý Chúa hay ý tôi thì cũng được Ngài ban ơn cho.
Khi tôi đến với Phong trào Canh Tân Đặc Sủng và bắt đầu cảm nhận một sự liên hệ riêng tư và mật thiết với Chúa Giêsu thì đời sống nội tâm của tôi trở nên phong phú. Nhưng khả năng điều động tổ chức của tôi từ lâu nay cũng không hề biến đi. Tôi lại dùng khả năng này để kết hợp những công tác khác nhau.
Chúa dạy tôi nhiều việc kế tiếp. Người ta thường nói rằng tôi cởi mở, dễ dàng hòa đồng và hay động viên khuyến khích người khác. Bản tính tôi luôn luôn như thế, vì tôi đã học đức tính của ba tôi từ thuở niên thiếu.
Tuy nhiên, sau khi tiếp cận với tình thương của Chúa Giêsu, tôi có thể nói rằng tôi trở nên cởi mở hơn, hòa đồng và động viên ngưòi khác nhiều hơn. Một sự phát triển những gì đã có. Chúa muốn giúp tôi trở nên hữu hiệu hơn. Đó là điều tôi cảm nghiệm được khi việc cử hành Thánh lễ chữa lành được tổ chức.
Mở đầu, chúng tôi có Thánh lễ chữa lành tại một Giáo xứ ở Sunnyvale vào mỗi tháng. Rồi thì ở năm Giáo xứ khác, cũng có Thánh lễ chữa lành. Tôi đề nghị họ tổ chức ở nhiều nơi khác nhau để tất cả mọi người đều tham dự dễ dàng.
Trong các Thánh lễ, tôi dạy người ta phải tha thứ, tha thứ cho những người đã làm mình đau đớn. Tôi muốn mọi người đọc chậm và suy nghĩ kỹ khi kêu lên: "Lạy Cha của chúng con." Nếu mọi người đọc nhanh tôi sẽ ngừng lại và bắt họ đọc lại thật chậm.
Tôi có những nhóm người luôn cầu nguyện cho những người bệnh vào mỗi cuối lễ. Đây cũng là lúc tôi nhận ra rằng nếu những người này không có tâm hồn trong sạch và cởi mở thì họ không nên cầu nguyện cho người khác. Vì thế tất cả gặp nhau vào mỗi thứ bảy, trước khi cử hành Thánh lễ chữa lành, tôi nói: "Hãy hát ca ngợi Chúa", và mọi người ca ngợi Chúa. Nếu khi họ hát mà không có lửa đến trong tâm tình ngợi khen Chúa, tôi sẽ bảo họ ngừng lại. Mọi người phải nói ra những khó khăn, trở ngại mà mình đang có để tất cả cầu nguyện cho nhau. Sau đó, mọi người sẽ đặt tay cầu nguyện cho nhau. Một người đàn ông nói là ông ấy rất độc ác với vợ ông. Người khác có vấn đề với con cái vị thành niên. Người khác nói về sự khó khăn với cha mẹ. Tất cả mọi sự khó khăn được bày tỏ ra. Hầu hết những người trong nhóm cầu nguyện đều đau khổ cả. Đây là lúc tôi đặt một điều lệ là những ai ở trong nhóm cầu nguyện vào Thánh lễ chữa lành ngày Chúa nhật thì phải đến dự ngày thứ bảy. Như vậy nhiều người Tôi bắt đầu nhận thấy Đặc Sủng của Chúa Thánh Linh ở các thời điểm khác nhau. Đã có nhiều ơn chữa lành xảy ra. Có người đàn ông bỏ Giáo hội và sống với một người khác. Sau đó ông ta bỏ tất cả mọi sự xấu xa rồi làm lại cuộc đời, và có công việc tốt. Một cánh tay run rẩy của em bé gái được trở lại bình thường. Người bị bịnh ung thư cũng được chữa lành. Tương quan giữa gia đình được hàn gắn và chữa lành.
Khi tôi cầu cho một phụ nữ từ Nam Mỹ, tôi được ơn trí tri rằng gia đình bà này không tha thứ cho nhau. Bà ta công nhận rằng bà ta ghét một người thân trong gia đình vì kẻ ấy ăn cướp tiền bạc của bà. Tôi giúp bà này bằng cách xin bà hình dung ra hình ảnh Chúa trước mặt bà. Và tôi xin bà hãy hình dung người thân ăn cướp ấy ở trong phòng với bà và Chúa. Bà ta bảo rằng bà không thể chịu được khi nhìn thấy người thân ấy. Tôi hỏi bà nếu bà ấy muốn cho người thân này trở lại phòng. Bà ta đồng ý và để cho kẻ ăn cướp ấy trong sự hình dung của bà cùng với bà và Chúa. Và tôi đề nghị bà nói câu này:
–Trong sự hiện diện của Chúa Giêsu, tôi muốn nói rằng tôi tha cho anh với tất cả tâm hồn của tôi.
Nhờ vào việc chọn lựa tha thứ, bà ấy bảo tôi là trong gia đình đã có sự chữa lành.
Một phụ nữ khác đến xin tôi cầu nguyện cho vì bà bị đau ốm và tôi hiểu được rằng bà cần tha thứ. Tôi hỏi bà ai là kẻ mà bà ghét nhất, và bà nói chính là mẹ của bà. Vì mẹ bà luôn hành hạ bà. Tôi bảo bà rằng sức khỏe thể xác của bà bị đe dọa vì bà không tha thứ cho mẹ.
–Bà phải tha thứ cho mẹ hay là Chúa sẽ không làm gì cho bà. Ngài có thể làm, nhưng Ngài sẽ không làm vì Ngài nói rằng Chúa Cha không tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta không tha thứ người khác.
Vì thế bà ấy tha thứ, và điều này thật khó khăn. Rồi tôi nói bà ta hãy kêu điện thoại cho mẹ bà để tha thứ cho mẹ. Điều này đã thay đổi cuộc sống của bà ta.
Có một phụ nữ cỡ tuổi 60 đến xin tôi cầu nguyện cho bà vì trong cả đời bà, bà rất sợ bóng tối. Tôi cầu xin Chúa hãy cho bà thị kiến về quá khứ, khoảng thời gian trong đời mà cơn sợ đến với cuộc đời bà. Bà ta có một thị kiến về chính bà vào khoảng 5 tuổi, bà ở trong một phòng tối. Ba của bà đùa với bà bằng cách xuất hiện trong phòng với cái mặt nạ xấu xí sáng rực trong phòng tối. Tôi xin Chúa cho thay đổi hình ấy. Ba của bà xuất hiện lại với một khuôn mặt tử tế, đầy tình thương. Ông ta bồng bà trên tay và ôm lấy bà. Bà ta nói rằng bà chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như vậy trong đời bà. Ký ức được hoàn toàn chữa lành và những nỗi lo sợ bóng tối đã tan biến.
Có một người đàn ông đến dự Thánh lễ chữa lành vì sự tò mò, vì muốn nhìn và xem những gì mới mẻ. Khi ông ta được 34 tuổi, lưng ông ấy trở nên đau nhức vô cùng. Ông ta cưới vợ năm 38 tuổi, và trong tám năm ông ta không thể cúi xuống cột dây giày vì đau lưng. Ông ta uống thuốc liên tục. Ông ta dự lễ và không cảm thấy điều gì mới lạ xảy ra, nên ông ta nghĩ rằng ông sẽ rời nhà thờ. Trên đường ra khỏi nhà thờ, ông ta cảm thấy có một luồng hơi ấm ở lưng. Ông ta nghĩ có lẽ nhà thờ quá đông nên nóng nực. Khi ông ta về nhà và bảo vợ, bà ta hỏi xem lưng ông còn ấm không? Ông ta nhận ra có điều gì khác lạ xảy ra. Ngày hôm sau, ông cẩn thận lết ra khỏi giường và lạ thay, ông ta nhảy xuống giường dễ dàng. Điều gì đã xảy ra? Ông ta cố với đến chỗ để thuốc uống nhưng không cần thuốc nữa. Ba tháng sau, ông ta đến tìm tôi và bảo tôi rằng ông ta vừa đào bới được ba tấn đá sỏi. Trước đó ông không nâng được một cái ly. Ông ta vẫn còn đang được chữa lành.
Có những lần tôi cảm thấy không phấn khởi gì và muốn ngừng không cử hành Thánh lễ chữa lành nữa vì tôi cảm thấy mệt mỏi. Một lần tôi vì chậm chạp nên phải nhờ một người bạn mặc áo lễ cho tôi. Ông này mặc áo ngược từ phía trong ra phía ngoài, và tôi bật cười. Tôi kể chuyện cho mọi người nghe và ai cũng cười vui vẻ. Điều này làm thay đổi không khí và trở thành một lễ chữa lành có nhiều ơn lành nhất.
Tôi dần dần bị rung tay (Parkinsons Disease), các bác sĩ khuyên tôi nên giảm bớt hoạt động. Và Thiên Chúa bảo tôi phải bỏ hết mọi công tác tông đồ. Ngài muốn tôi dành hết thì giờ cho Ngài. Phải ngừng mọi công tác mà tôi đang làm là một bước ngoặt lớn cho một người đã điều động đời sống người khác trong 75 năm của 82 tuổi đời. Tôi bắt đầu bảo người ta phải làm gì ở lứa tuổi 80. Tôi là người tổ chức, người lãnh đạo, người điều khiển các hoạt động. Tôi thổi còi hiệu và người ta nhảy. Phải từ bỏ sự lãnh đạo là một sự khó khăn nhất của tôi. Khi tôi được 13 tuổi, mẹ tôi lấy chồng khác và tôi không thể chịu được cha ghẻ tôi vì tôi mất việc điều khiển kẻ khác. Tôi không muốn nói đến những tư tưởng tiêu cực cho đến khi tôi ở trong Nhóm Canh Tân Đặc Sủng. Tôi mới nhận thức rằng tôi phải tha thứ cho mẹ tôi vì đã lấy chồng khác. Dần dà tôi tập thích ông ba ghẻ, nhưng các gốc rễ cay đắng ấy không bao giờ lành cho đến khi tôi mời Chúa ngự vào.
Đời sống nội tâm tôi càng lớn mạnh khi tôi không thể làm những việc khác. Lời Phúc Âm, Mát-thêu 18: 19, dẫn tôi đến mối giao hòa với Chúa Cha "... nếu hai người trong các con hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Chúa Cha ở trên trời sẽ ban cho." Tôi đi từ sự giao hảo tốt với Chúa Giêsu để đến mối giao hảo với Chúa Cha. Khi Chúa Cha nói chuyện với tôi, Ngài gọi tôi là "Joe" Khi Chúa Thánh Linh nói chuyện với tôi (chỉ có hai lần mà thôi), Ngài gọi tôi là "Joseph Augustine". Mẹ Maria gọi tôi là "Joly."
Tôi có một Thiên thần bản mệnh là "Shelter", Ngài đã che chở tôi và can thiệp để cứu tôi rất nhiều lần trong những năm dài. Tôi bị suýt chết hai hay ba lần nhưng Thiên Chúa che chở bảo vệ tôi.
Một phụ nữ hỏi tôi rằng Ơn Thanh Tẩy trong Chúa Thánh Linh đã thay đổi tôi như thế nào. Tôi trả lời rằng không có sự ồn ào xảy ra. Không có gì ghê gớm . Tôi luôn cảm nhận đời sống Thiên Chúa ở bên cạnh tôi, và tôi biết rằng tôi là của Ngài. Và khi tôi bắt đầu biết Chúa trong mối giây thân ái và riêng tư, sự biến đổi đến dần dần.
Tôi điều nghiên chữ "biết" với sự kính trọng Chúa, và hiểu được rằng Phúc Âm nói về "biết" Ngài cũng giống như chồng và vợ biết nhau. Cũng giống như liên hệ hôn nhân. Tôi cảm thấy buồn vì tôi là một Linh mục Công giáo trong 35 năm mà tôi không có một liên hệ yêu thương thân mật với Ngài. Tôi càng buồn hơn vì người ta vào dự Canh Tân rồi vứt bỏ mối liên hệ ấy mà không nuối tiếc hay thử một lần nữa. Tôi đã vứt đi rất nhiều thứ mà không hề suy nghĩ trong 35 năm. Đó là một sự mất mát lớn nhất.
Nhiều khi tôi cảm thấy tính tình của tôi giống Thánh Phêrô. Tôi bỏ chân tôi trong miệng tôi. Tôi cảm thấy khó khăn một cách dễ dàng, tôi làm nhiều điều điên rồ. Tuy nhiên tôi cũng giống Thánh Phêrô là tôi sẽ đứng dậy, bước ra khỏi thuyền và bước trên nước. Khi tôi nhìn Chúa Giêsu, tôi không bao giờ chìm.
Tôi cầu nguyện cho những ai đọc phần cảm nghiệm của tôi để có thêm ơn can đảm. Tôi xin cho các bạn ơn tò mò tìm hiểu và mở rộng để tìm một hướng đi mới. Và đối với những người đang điều khiển người khác, còn cảm thấy thích thú khi lãnh đạo, tôi cầu xin Chúa cho các bạn được ơn lành gấp hai lần để đáp ứng nhu cầu lãnh đạo, và hãy nghỉ yên trong cánh tay Chúa Giêsu. Đó là một nơi tốt đẹp nhất.
|