Bên mộ
Lazarô – Lm Giuse Nguyễn
Hữu An
Trong dịp hành hương Đất Thánh,
tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn
Cây Dầu, nếu đi băng đồi theo
đường thẳng chỉ chừng 4 km, nhưng
hiện nay nằm trong phần đất thuộc Palestine
với bức tường bêtông ngăn lối cũ, nên
phải đi vòng bằng xe bus khoảng 20 km mất
chừng 30 phút. Bêtania tên hiện nay là El - Eizarya. Thăm
căn nhà Bêtania. Viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp
gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép
lạ cho Ladarô sống lại. Nhà thờ bằng đá
không lớn lắm. Phía ngoài nhà thờ, ngay bên
đường lộ, một hầm sâu với bậc
thang đi xuống, là mộ Ladarô. Mộ đục sâu vào
đá, mấy chục bước tam cấp đi
xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến
đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã
an nghĩ bốn ngày.
Đứng trước mộ Ladarô, tôi
nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45.
Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai
người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa
Thầy, người Thầy thương mến đang
bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không
đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp
để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”.
Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu
vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh
em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh
em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường
tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin
tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu
Thầy có mặt ở đây thì em con không chết.
Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì
Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho
Thầy”.
Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc
chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được
sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa
Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại
và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết
cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết
vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi
hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó
không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin
Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải
đến trong thế gian”.
Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền
năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết
cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải
im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài
truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi
mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa
Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một
số người đã tin theo Chúa. Một số khác,
nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại
chống đối cách quyết liệt hơn nữa.
Họ hội họp với nhau và quyết định
kết án tử hình cho Chúa.
“Thầy là sự sống lại và sự
sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi
làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời
kỳ diệu nhất đối với người
thời đại cũng như bao người ngoài Kitô
giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng
đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính
nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin
vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin
vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải
thoát, tin vào sự sống và sự sống lại.
Chính vì thế mà tất cả những
lời chứa đựng trong Kinh Thánh Tân ước
được gọi là Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô chính là
nội dung Tin Mừng. Thánh Phaolô thường gọi
những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa
Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Trong Tin
Mừng bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu:
Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14;
2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9).
Sống và chết là qui luật tuần hoàn và
phát triển của muôn loài muôn vật. Vạn vật tuy
biến hóa, thay đổi hình dạng, nhưng nguyên khí
vẫn là một. Trong sự biến hóa, thì chết là
để phát sinh sự sống mới, vì: “Nếu hạt
lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó
mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).
Như vậy: chết là điều kiện nhất
thiết để triển nở và thành toàn; chết là một
sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một
mức độ sung mãn hơn. Dựa theo qui luật
tuần hoàn và phát triển đó, chúng ta cảm nhận cách
sâu xa khi Chúa Giêsu nói về sự sống con người:
“Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ lại được cho sự sống
đời đời.” (Ga 12, 25).
Chết và sống lại đó là hai sự
kiện căn bản không thể tách rời. Không thể
có sống lại nếu không chết. Trái lại, nếu
Chúa Kitô chết không sống lại thì nói như Thánh Phaolô
“đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng”
(1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối. Chết và
sống lại là hai sự kiện “bất khả phân”. Hai
sự kiện của một mầu nhiệm Chúa Kitô.
Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng
hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa
là con người yêu thương. Ngài là Thiên Chúa, vì có
quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con
người nhân ái đến thăm gia đình quý mến
có người yêu thương đã chết, trái tim Chúa rung
động trước những muộn phiền niềm
đau chia ly trước sự chết. Chúa “thổn
thức trong lòng và xao xuyến”. Chúa đã khóc khi
đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Chúa
đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến
nỗi những người có mặt ở đó đã phải
thốt lên: “Kìa xem! ông ta thương anh Ladarô biết
mấy!”.
Chúa đã cho Ladarô sống lại, hứa
hẹn niềm hy vọng cho nhân loại: “Chính Thầy là
sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy
thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin
vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Niềm
hy vọng vào sự sống lại của những
người đã chết được Thiên Chúa mạc
khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa.Người
“không phải Thiên Chúa của những người chết,
nhưng của những người sống” (Mc 12,27).
Ladarô đi vào đường hầm của
sự chết. Chúa đã gọi Ladarô quay trở lại:
“Ladarô, hãy ra đây!... Người chết đi ra, chân tay
còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện
với cùng một thân xác như khi đi vào mồ.
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã
làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24),
ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà
Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô
đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv
9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống
lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc
7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội
đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô.
Cũng như những người được hồng
ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ
lại chết, người thân phải mai táng anh lần
nữa.
Chúa Giêsu đối đầu với sự
chết ngay trong lãnh địa của nó. Ngài vào và ra
khỏi đó như một người chủ vì Ngài
nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18).
Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên
vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử
giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của
mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10)
“để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã
hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô
hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới.
Chết không còn là một định luật con người
đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay
một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô
hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7;
Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm
chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy
lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng
được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11).
Từ chỗ là do định luật thiên
nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay
những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để
được sống đời sống mới và ở
đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối
với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ
không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế
đối với người Kitô hữu, chết là
một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự
sống (Pl 1,21).
Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự
sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự
sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài.
Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống
lại của con người với niềm tin vào chính
sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống
lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu
đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới,
mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý
sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực
hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài
làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của
sự sống.
Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta
bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà
còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người
của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu
ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt
để: “Người vẫn yêu thương những
kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và
Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b).
“Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng
của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn
được nữa: “Không có tình thương nào cao
cả hơn tình thương của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Sự chết và sống lại của Chúa
Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con
người đã mất do tội lỗi nhưng còn là
một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và
sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp
thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết
lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại
từ đây không những được ơn tha thứ,
được gột rửa sạch tội lỗi
để khỏi án chết đời đời,
nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa,
được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15).
Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con
người khi sáng tạo là sự sống trong
tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự
sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự
sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài
người được nâng lên địa vị làm con.
Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách
quan. Sự sống mới hay sự sống”siêu nhiên” là
một trạng thái ân tình mà con người phải đi
vào để được thực sự thông hiệp
với Thiên Chúa.
Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là
chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm
mống của sự sống đời đời. “Ai
sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết”
(Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ
mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi
Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong
tương quan ân tình với Người.
Lạy Chúa Giêsu,
xin ban thêm đức tin cho chúng con.
Xin cho chúng con
được sống lại trong niềm tin vào Chúa
để chúng con được sống dồi dào trong
tình thương của Chúa. Amen.
|