Vinh quang – Lm. Giuse Trần
Việt Hùng
Để chuẩn bị
chương trình cứu độ loài người, Thiên
Chúa đã chọn ông Abram làm tổ phụ một dân
tộc. Vào thời điểm đó, ông
Abram và bà Sara còn hiếm muộn, vì tuổi đã cao mà
chưa có con nối dòng. Thiên Chúa đã ban lời
hứa: Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn, Ta
sẽ ban phúc cho ngươi, cùng làm vinh danh ngươi,
ngươi sẽ được diễm phúc (Stk 12, 2). Tổ phụ đã bước đi trong niềm
tin phó thác và một lòng tin tưởng tuyệt đối
vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Theo
lệnh Chúa, ông bà đã rời quê hương xứ sở
đi đến miền đất Chúa hứa. Ông Abram đã trải qua biết bao thử thách
thăng trầm. Ông vâng lệnh Chúa
một cách vô điều kiện, ngay cả khi Thiên Chúa
muốn ông hiến dâng đứa con trai độc
nhất làm hy tế. Qua sự trung tín,
Abram đã được Thiên Chúa đổi tên thành Abraham.
Abraham trở nên tổ phụ của tất
cả những người có niềm tin vào Thiên Chúa duy
nhất. Ông đã được Thiên Chúa đoái hoài ban
cho có con đàn, cháu đống nối dòng trải qua muôn
thế hệ từ đời nọ tới đời kia.
Dân tộc Do-thái thuộc dòng dõi
của tổ phụ Abraham. Một dân
tộc đã được Chúa yêu thương chăm sóc
dẫn đường, nhưng cũng là một dân
phải chịu nhiều sự đắng cay, khổ
đau và thăng trầm nhất trong lịch sử nhân
loại. Khoảng năm 1300 B.C., dòng dõi
con cháu của tổ phụ Abraham đã rời nước
Ai-cập để tiến vào Miền Đất Hứa.
Năm 996 trước Công Nguyên, Vua Đavid
đã chiếm hữu thành Giêrusalem và đặt làm thủ
đô của vương quốc. Con của vua Đavid là vua Salômôn đã xây dựng
Đền Thờ đầu tiên năm 950 B.C. để
kính thờ Thiên Chúa. Năm 586 B.C., Đền thờ
Giêrusalem đã bị phá hủy bởi Vua Nebuchadezzar và dân
chúng đã phải chịu cảnh lưu đầy
tại Babylon. Năm 515
B.C., con dân được trở về
quê hương xứ sở để xây dựng lại
Đền Thờ lần thứ hai. Khi Chúa
Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tiên
báo về sự sụp đổ của đền
thờ Giêrusalem. Vào năm 70 A.D.,
Đền Thờ Giêrusalem đã bị tàn phá bình
địa bởi Hoàng đế Titô và chỉ còn
để lại bức tường than khóc ô nhục cho
tới nay.
Trải qua 20 thế kỷ, dân
tộc Do-thái chịu trăm ngàn thách đố dưới
sự chiếm đóng và đô hộ của nhiều
quốc gia. Dân chúng phải đi tản
mác khắp nơi trên thế giới. Mãi
tới năm 1948, Nước Do-thái mới được
công nhận là một nước độc lập và
tự trị. Giêrusalem trở thành
thủ đô của nước Do-thái (State of Israel).
Và nhờ sự qủa cảm dũng lực của
thần dân Do-thía từ khắp mọi nơi trên thế
giới, năm 1967, họ đã mở cuộc chiến
tranh tấn công 6 ngày vào các nước lân bang của Israel,
đã nới rộng và tái chiếm nhiều phần
đất của tổ tiên thuở xưa. Gần
2 ngàn năm lưu lạc, giờ đây, dân tộc Do-thái
đã chính thức được sống trên phần
đất mà các tổ phụ đã dựng xây. Miền đất đã ghi dấu tất cả
những giai đoạn thăng trầm qua thời các
tổ phụ, các quan án, các vua, các tiên tri và hình thành lịch
sử Ơn Cứu Độ. Chính trên miền đất
này, Chúa Giêsu đã xuất hiện rao giảng Tin mừng
cứu độ. Một ngày kia,
Chúa đã đưa ba môn đệ lên núi Taborê và biến
hình vinh quang trước mặt các ông. Thiên Chúa vẫn
đoái thương con dân mà Người đã chọn: Ta
sẽ ban phúc cho ai chúc phúc ngươi, và chúc dữ cho ai
chúc dữ ngươi. Mọi dân tộc trên
mặt đất sẽ nhờ ngươi mà
được diễm phúc" (Stk 12, 3).
Tất cả những lời giảng
dạy uy quyền cùng với những phép lạ kèm theo đã chứng thật Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa. Chúa đã hạ mình nhập thể
mặc lấy thân xác loài người để cư
ngụ giữa chúng ta. Chúa biến hình là
trở về tình trạng nguyên thủy của Đấng
là trung gian vạn vật. Chúa đã
muốn mạc khải bản tính Thiên Chúa cho các môn
đệ. Người đã tỏ hiện vinh quang
cao cả đích thực: Người biến hình
trước mặt các ông: mặt Người chiếu sáng
như mặt trời, áo Người trở nên trắng
như tuyết (Mt 17, 2). Chúa biến hình là
để củng cố niềm tin và khai mở mầu
nhiệm về sự sống vĩnh cửu cho các tông
đồ. Nhưng rồi Chúa Giêsu không dừng
lại trong sự biến hình vinh quang sáng láng, Ngài còn
phải xuống núi dấn thân hoàn tất con
đường thánh giá khổ đau để cứu
độ nhân loại. Đây chỉ là
một khoảnh khắc hé mở một niềm hy
vọng vinh phúc bất diệt.
Cùng hiện diện với Chúa Giêsu, có ông
Môisen và tiên tri Êlia và ba tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê
đi theo Chúa. Phêrô sung sướng chìm
đắm trong nguồn ân sủng cõi thiên đã muốn
lưu lại trong cảnh giới thần tiên: Lúc ông còn
đang nói, thì có một đám mây sáng bao phủ các Ngài, và có
tiếng từ trong đám mây phán rằng: "Đây là Con
Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe
lời Người" (Mt 17, 5). Thiên Chúa Cha đã chứng
nhận sứ mệnh cao cả của Chúa Giêsu Cứu
Thế. Kinh nghiệm trên núi Taborê là nguồn hy vọng sáng
ngời cho các tông đồ và cho chúng ta còn đang lữ
hành dưới thế. Chúa Giêsu sẽ dẫn
chúng ta qua con đường thập giá tới vinh quang.
Chúng ta không thể đi con đường tắt
để đạt được triều thiên vinh
thắng. Các tông đồ đã xác tín con đường
đi theo Chúa.
Trong Mùa Chay Thánh, chúng ta có cơ
hội trở về nguồn để suy gẫm sứ
vụ của Chúa Kitô. Ngài đã từng
bước trải nghiệm những cám dỗ, những
đau khổ và vinh quang. Con đường mòn Chúa
đã đi loan báo tin mừng không đơn giản dễ
dàng. Cụ thể, Chúa đã phải trèo
dốc, vượt đồi, lên non và với đôi chân
trần rảo khắp các làng mạc và thành thị. Chúa không chỉ giảng dạy nơi Hội
Đường, nhưng đã dong duổi khắp chốn
qui tụ từng nhóm nhỏ mời gọi sám hối
đổi đời, dậy dỗ sự thật về
nước trời và chữa lành bệnh hoạn tật
nguyền cả thân xác và tâm hồn. Trong
ba năm giảng dạy, Chúa đã thi hành sứ vụ
từ Galilê, miền Nazareth, qua ngả Samaria và xuống Giuđêa, trọng tâm là Giêrusalem. Khoảng cách từ Bắc xuống Nam
rất xa xôi và núi non hiểm trở. Chúa đã tận
dụng mọi cơ hội để cải hóa lòng
người và uốn nắn trái tim
của họ trong tình yêu.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã
mời gọi sự cộng tác loan truyền tin mừng
cứu độ: Con thân mến, con hãy đồng lao
cộng tác với Cha vì Tin Mừng, nhờ quyền lực
của Thiên Chúa, (2Tm 1, 8). Phaolô tự nhận là đứa
con đẻ non trong ân sủng cứu độ của
Chúa, nhưng ông đã hết mình truyền rao chân lý mà ông
đã lãnh nhận từ chính Chúa Kitô phục sinh. Cho dù
đối diện với sự khó khăn, bị xua
trừ, bắt bớ, đánh đập, tù đầy và
ngay cả sự chết, Phaolô vẫn một niềm tin
tưởng và cậy trông vào sự sống trường
sinh và vinh quang bất diệt mà Chúa Kitô sẽ thưởng
ban. Tin mừng cứu độ đã
được tiếp tục truyền rao đến
khắp cùng bờ cõi, những ai tin vào Chúa Kitô thì sẽ
được lãnh ơn cứu độ.
Chúa Kitô đã đến
trần gian và đã hoàn tất sứ vụ của Ngài.
Ngài đã chiến thắng sự dữ và
thần chết. Lời Tin Mừng
của Chúa có uy lực giải thoát và dẫn
đường chúng ta bước vào miền đất
trường sinh. Chúng ta không còn phải tìm kiếm
đâu xa, nhưng hãy trở về múc tận nguồn
ơn cứu độ trong niềm tin vào Chúa Kitô, vào Thánh
Kinh và đời sống Bí tích của Giáo Hội. Tin
mừng sẽ giải thoát và dẫn dắt chúng ta tới
vinh quang sáng ngời. Thánh Phaolô viết: Nhưng bây giờ
mới tỏ bày bằng sự xuất hiện của
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta,
Người đã dùng Tin Mừng tiêu diệt sự
chết và chiếu soi sự sống, và sự không hư
nát được tỏ rạng (2Tm 1, 10). Sự
biến hình của Chúa Giêsu là dấu chứng kỳ
diệu và là niềm hy vọng tuyệt đối cho
mọi kẻ còn đang lữ hành giữa biển
đời ô trọc này.
Lạy Chúa, vinh
quang của Chúa chói lòa. Chúa là ánh sáng chiếu dọi vào
thế gian u tối. Xin cho chúng con biết dõi theo
ánh sáng của Chúa để tìm về nguồn an lạc và
nguồn sống vinh phúc trường sinh.
|