Nhiệm
vụ của người môn đệ
(Chú giải
của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay
nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến
sứ mạng của người môn đệ “trong
thế gian”.
Bản văn được trực tiếp kết
nối với các “Mối Phúc” (5,3-12). Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những
câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp. Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc
với từ “anh em” ở c. 13. Những người
nhận bản văn này không phải là mộthạng tín
hữu đặc biệt, nhưng là các môn đệ
đã được nói đến ở đầu
chương (5,1) và được
ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12. Cộng
đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ
đến bổn phận truyền giáo.
2.-
Bố cục
Bản văn có thể chia làm hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho
đời” (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần
gian” (5,14-16).
3.-
Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói trực
tiếp với các môn đệ Người, để xác
định sứ mạng của họ. Đây không
phải là mộtgợi ý về mộtchiều
hướng nên theo, nhưng là một
khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng
có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 (“Còn các ngươi, các ngươi sẽ
là mộtvương quốc tư tế cho Ta và mộtdân
tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh)
đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác
định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng
đã chọn các môn đệ trong loài người và bây
giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối cho
đời… ánh sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là
“muối của đất (gê)” và “ánh sáng của thế
gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng
song song với “trần gian”, nó không có nghĩa là đất
bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là “trái
đất”, tương tự với “trần gian”,
“thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần gian”
ở đây đều có nghĩa là “toàn thể nhân
loại”, tức có mộttầm mức phổ quát.
- để
họ thấy những công việc tốt đẹp anh em
làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với
Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản
văn nêu ra hai lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang
của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý do là việc chúc
tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm
để thỏa mãn tính khoe khoang của mình (x. 6,2-5). Hai
bản văn cũng nói đến hai cách thức xử
sự khác nhau: ở đây, người môn đệ
chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ
của Đức Kitô, là Kitô hữu; còn ở 6,1-18,
Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta
tỏ ra để lôi kéo sự chú ý của người
khác.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những
người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được
Đức Giêsu lấy lại mà ngỏ trực tiếp
với các môn đệ, là những người đang
ở ngay bên Người, và với đám đông đang
nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi vì
Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và
vu khống đủ điều xấu xa” (5,11).
Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết ngay
từ đầu phản ứng tiêu cực của môi
trường, nếu họ sống trung thành với
Người, nếu họ tìm sự công chính và quy
hướng lối sống của họ theo chương
trình của Người. Họ phải
trả lời thế nào? Ai cũng coi
trọng việc mình được chấp nhận và nhìn
nhận. Phải chăng các môn
đệ phải thích nghi với môi trường của
họ, để được môi trường chấp
nhận? Phải chăng họ phải
giới hạn quan hệ với mộtvòng những
người có cùng những ý tưởng như nhau,
để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng
như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay còn đang
thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính
của mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng
sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm
muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ
đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11),
họ vẫn đưa được người ta
đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho
đời” (13)
Khi khẳng định rằng
các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu
cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo. Do ơn gọi, họ phải
đóng mộtchức năng đối với những
người khác tương tự muối đối
với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối,
làm cho thêm hương vị). Không có muối, thức ăn bị hư thối; không có
người Kitô hữu, xã hội thiếu mất
mộtsức mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng
gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang
muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện
của người Kitô hữu không phải là không đáng
kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống
như muối, sự hiện diện của Kitô hữu
không thể thay thế. Không ai có thể
đứng vào vị trí của họ nếu họ bị
suy yếu đi. Tác giả lưu ý và răn đe các
Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt
nhẽo đi. Họ cũng sẽ như muối, khi
đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần
gian” (14-16)
Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh
Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức Giêsu chức
năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng
tối, đêm tối, trong Cựu Ước cũng như
Tân Ước, là biểu tượng của các thế
lực sự ác (x. Mt 8,12; Lc 22,53). Môn
đệ Đức Kitô được thông dự vào
sự sáng của Thiên Chúa, như Môsê khi xuống núi có mang
trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh 34,35). Không thể có chuyện Kitô
hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể dửng
dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu
đang tỏa ra. Giống như ánh sáng, Kitô hữu
đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn
nhất của trái tim con người và
đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong
đó.
Lời khẳng định
được minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành xây trên núi” có thể gợi
ý đến Giêrusalem thiên sai, là điểm thu
hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5;
60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như
mộtnguồn ánh sáng từ đó mọi người có thể
nhận được sự nâng đỡ và định
hướng. “Thành xây trên núi” nêu bật tính
khả thị (thấy được), điểm quy
chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô
cho tất cả mọi người. Hình
ảnh này được nhắc lại bằng hình
ảnh cái đèn đặt trên đế. Căn phòng
trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở
nên sinh động nhờ ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được
áp dụng cho từng người môn đệ. Do
ơn gọi, người môn đệ phải thông chia ánh
sáng cho người khác. Họ không được thiếu
ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì
không tạo được mộtảnh hưởng
tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là
ánh sáng của các lời nói, cũng chẳng phải là ánh
sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh sáng của “các
việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề
cập đến (4,23-25) và đã làm (5,3-11) và sẽ còn
nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ
của Người.
Khi đó người ta nhận ra rằng những ân huệ người môn đệ đang có
phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng
ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa
đòi hỏi con người hành động để tán
dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động
cứu độ của Đức Kitô chứng tỏ
rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con
cái Thiên Chúa “tuyển chọn” (x. Mt 5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của nhiệm vụ
được ký thác cho họ, các môn đệ phải là
như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi
vì nhiệm vụ của họ là thúc bách và lôi cuốn,
họ phải ở trước mặt người ta,
chứ không tránh né. Bởi vì bổn
phận của họ là đưa đến mộtcái hoàn
toàn mới, họ phải duy trì chân tính của họ,
chứ không được tự đồng hóa với môi
trường của họ. Chính các “việc tốt”
giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh
sáng.
Đời sống của các môn đệ đi theo các huấn thị của Đức Giêsu
được coi như là mộtnhiệm vụ lớn.
Không ai có thể thay thế họ được; họ
phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần
gian nhận được hương vị và trở
thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ
phải bày tỏ cách thức hiện hữu của Thiên
Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các
đứa con với Chúa Cha và chinh phục loài người
về cho gia đình Ngài.
5.-
Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm hương vị; muối
thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi
hư thối. Muối hòa tan ra, và được phân
phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối
lượng thực, nhưng muối vẫn là muối, thì
mới giữ được giá trị và tính hữu
hiệu của mình. Giống như
muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện
diện trong môi trường và liên kết với môi
trường. Nhưng họ phải cứ là
muối, phải bảo toàn được cách cách thức
sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là mộtviên ngọc,
mộtnén bạc phải được cất giữ
hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là
mộtchất gia vị. Nó sinh tác dụng khi nó
chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực
phẩm. Kitô hữu là muối cho đời, bởi vì
người ấy không được kêu gọi đi vào
mộtcuộc sống tách biệt, xa rời những
người khác, nhưng bởi vì người ấy
biết tan biến mình đi trong đại gia đình nhân
loại để hỗ trợ bất cứ ai cần.
Hình ảnh muối chống lại mọi thứ tinh
thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi
đến dụ ngôn men vui trong bột (13,23).
Kitô hữu không những là người của những
người khác, mà còn được gọi sống
với những người khác, theo chiều hướng
của Đức Kitô (bạn của người tội
lỗi và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh sáng đi song song với hình
ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên
cuộc sống của con người. Không có ánh sáng, thì
không thể có sự sống; mọi sự chìm vào trong bóng
tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1).
Như thế, trách nhiệm của
người Kitô hữu là không thể lường
được. Nếu sự dữ không lui đi, là
vì ánh sáng phải đánh đuổi sự dữ đi
lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa,
lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải
đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự
công chính (5,6), và đó là mối quan tâm
đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình
thức căn bản qua đó họ làm chứng về
Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự
của họ, các môn đệ phải đưa loài
người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự
hỏi, sao cho cuối cùng loài người cũng hòa
với họ trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt
chước cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của
họ, bản chất của Chúa Cha mới
được mạc khải ra và nhận biết.
Nhờ những người sống như là con của
Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là
Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng nhiều người
đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức Giêsu phải là
mộtđiểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi
sự vật xuất hiện ra trong bộ mặt thật
của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó,
họ phải ở vào mộtvị trí dễ thấy. Kitô
hữu không được quên và càng không được
cắt đứt sự thông truyền các ân
ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được
chạy lung tung để tìm
người theo phe mình. Họ cũng không
được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu mình
vào trong đám đông. Chỉ khi họ
có thể thấy được, chứ không đi
trốn hoặc đi ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên
Chúa mới có thể được nhận biết như
là Cha nhân lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu,
tinh thần phục vụ mới có thể trở thành ánh
sáng cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô phải là
mộtngọn đèn đặt trên đế để
soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị
trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn
toàn khác với việc tìm cách khoe mình (x. 6,1-18)
vì những động lực khác. Chúng ta phải cho
thấy các việc tốt đã làm không phải để
được người ta khen ngợi (6,2),
nhưng để cho nhờ ta trung thành sống bản tính
con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa
được khen ngợi (5,16).
|