MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
--- Chú giải
của Giáo
Hoàng Học Viện Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Có lẽ các câu này là lời đả kích
đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh
thái quá thế gian (do ảnh hường của nhóm Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những
cám dỗ thường xuyên của Kitô giáo không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?
2. Đâu là tầm quan trọng của muối trong
thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa
biểu trưng đặc biệt? Một
công dụng đặc biệt?
3. Vì sao một thành phải được ưu tiên
tọa lạc trên ngọn núi?
4. Đâu là ý nghĩa của chữ “ánh sáng các con “ trong thành ngữ “ánh sáng các con phải chói
lọi trước mặt mọi người?
5. Các câu này có tạo nên mối liên hệ giữa
người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của
họ không? Mối liên hệ nào?
6. Người Kitô hữu là muối cho đời theo nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).
7. Làm sao dung hòa các câu 14- 16 với Mt 6, 1-18?
***
1. Trong thế giới cổ xưa, muối và ánh sáng
được xem như là hai thực tại chẳng ai có
thể bỏ qua: không gì ích lợi hơn muối và mặt
trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102). Cả hai
cũng thường được nhắc đến
trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm
cần thiết bậc nhất của dân Bedouin (Ả
Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì
xấu (2V 2, 19- 21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6)
Nó nên thực phẩm (G 6, 6; Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị
chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi hy
tế (Xh 30, 35; Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành
biểu hiệu của sự hiếu khách, của minh
ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau
hết nó là biểu tượng của sự khôn ngoan (xem
Phụng vụ Bí tích rửa tội - liên hệ với Ed
16,4) mà thỉnh thoảng nó được nối kết
với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ;
bấy giờ nó chỉ sự khôn ngoan hoàn hảo mà
người hiền triết sẽ thủ đắc trong
thời thiên sai.
2. Ánh sáng cũng năng được sử
dụng như là một biểu tượng trong Thánh kinh,
nơi nó thường chỉ sự mặc khải cứu
độ của Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị,
người Tôi tớ Giavê được công bố là” ánh
sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân
ngoại (42, 6). Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, “ánh
sáng thế gian” được gán cho Thiên Chúa, cho Ađam,
cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho
Giêrusalem. Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa
Giêsu là ánh sáng thế gian” (Lc 2, 32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ
phải trở nên ánh sáng của nhân loại (P 12, 15; so sánh
với Ep 5, 8-14).
Kiểu nói trực tiếp trong Mt “Các con là muối...
là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện
dụ ngôn đi tiếp theo Tám mối
phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ
của cải, biết sống hiền lành khiêm
nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử
thách, kiên quyết theo đuổi sự
hoàn thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta
mới có thể nói thực với họ: “Các vị là
muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian”. Phần
tiếp của Diễn từ sẽ cụ thể cho thấy
cách thức của người môn đồ tự tỏ
mình là muối, là ánh sáng.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Các con là”:
Thành ngữ có lẽ mượn ở Xh 19, 6: “Các
ngươi sẽ là một vương quốc tư
tế và là một dân thánh cho Ta”. Giavê đã nói
với dân Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây nói với môn đồ
Người đã chọn giữa loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi
của tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh định sứ
mệnh của các môn đồ Người.
“Muối cho đời “: “Đời”, ám chỉ loài người, là một
từ ngữ quen thuộc với Cựu ước. Ở đây “đời” song song với “thế
gian” của câu 14. Người môn
đồ chẳng phải là muối của đất, vì
không bao giờ muối được dùng như phân bón,
nhưng là muối cho đời cho thế gian. Ở
đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng “muối”
không chỉ cần thiết cho bản thân người môn
đồ, như là một phẩm chất nội tại,
song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh
của mình đối với nhân loại. Do đó phẩm
chất cấu thành môn đồ không thể tách rời
khỏi chức vụ truyền giáo của kẻ ấy. Đây là một nét nói lên chiều hướng
phổ quát và truyền giáo mà Mt thích dùng.
“Nếu muối ra lạt”: Có thể giải thích hai cách:
1. Hình ảnh
dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy ở phía Tây-Nam
Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc
Djebel-ousdeum). Loại muối màu xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến
thành bùn vô đụng dưới tác dụng của ẩm
ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối,
nhưng thực ra không phải là muối nữa.
2. Đúng hơn, có
lẽ Chúa Giêsu đã muốn gợi lên một hình ảnh
không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến
tính cách nghịch lý của một môn đồ đã
đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn
đồ.
“Thì lấy gì muối nó lại”: Phàm kẻ phải trở nên
nguyên nhân hoàn thiện cho bao người khác thì không thể
nhận lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho
họ. Nếu y đánh mất nhân
đức, người khác không thệ hoàn lại cho y.
“Nó không còn ích gì”: Muối nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay
cả làm phân bón. Người môn đồ
cũng vậy. Đánh mất sự cao
quý của mình, kế đó trở nên đối
tượng khinh khi, như thế mảng trong mình một
sự thối nát đặc biệt; tình yêu ngày
trước của y đi dần tới chỗ tiêu tán.
Câu “Chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta
dẫm đạp đi thôi “ gợi lên
cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn
bã ở phương Đông ngay xứ. Đây là hình ảnh
nói lên việc kết án người môn
đồ đã mất tinh thần của ơn gọi
mình.
“Ánh sáng của thế gian”: ánh sáng của thế gian có
nghĩa là cho thế gian, chứ không phải thuộc
về thế gian hay là bản chất của thế gian. “Một
thành tọa lạc trên núi”: đây là hình ảnh của
một xứ mà các thị trấn thôn làng thường
được xây trên các cao điểm (để có
vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc
tấn công từ bên ngoài vào). Điều
đó đặc biệt đúng đối với
Giêrusalem, thành mà ta có thể thấy từ rất xa. Trong trường hợp này, tuyệt đối
không thể che dấu thành được. “Ánh sáng
của các con”: Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô
đem đến thì sống trong môn đồ và đơm hoa kết trái trong cách ăn
nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô,
Đấng đóng ấn người trên các môn đồ.
Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải
tỏ hiện ra trong các việc họ làm. Các
hành động này phải có một phẩm chất,
một tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ
khơi dậy được, lời những kẻ
chứng kiến, lời ngợi ca Thiên Chúa.
“Ngõ hầu họ thấy việc lành các con làm”: Làm sao dung hòa câu này với 6, 1-18
(nhất là các câu 1-2. 5. 16)? Thưa
động lực khác nhau trong hai bản văn: ở
đây động lực là vinh quang Chúa Cha trên trời; còn
trong 6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời
khen ngợi bản thân để thỏa mãn lòng khoe khoang
tự phụ (x. 6, 2-5: “hầu được vinh vang
nơi người đời... hầu được bày
ra cho người ta thấy...”). Cách hành động cũng
khác nhau: ở đây, người môn đồ phải
tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục
đích làm người ta chú ý.
KẾT LUẬN
Môn đồ Chúa Kitô nhất
thiết phải ảnh hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh
phúc theo quan điểm của Chúa Kitô, thứ hạnh phúc
của Bát phúc, thì người môn đồ mới có
thể tỏa chiếu trong thế gian và ướp
mặn môi trường sống của mình.
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1. Người Kitô hữu toan thất vọng
trước kết quả nghèo nàn của nỗ lực
mình, phải can đảm lên bằng cách nhớ rằng
mình thực sự quan trọng đối với thế
giới hôm nay, mặc dầu bề ngoài có vẻ trái
ngược, nhớ trong mình là muối và ánh sáng của
trần gian. Nhân loại sẽ mất hết
ý nghĩa nếu không có sự hiện diện là hành
động của người Kitô hữu trong thế
giới.
2. Người Kitô hữu toan nhụt chí và bằng
lòng với một cuộc sống tầm thường,
cũng phải nhớ lại rằng, vì là muối và ánh
sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận
đào ngũ hay buông thả mà không phản lại với
bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.
3. Chính việc can đảm thực hiện Bát phúc
giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và
ánh sáng của vũ trụ. Còn tất cả mọi
đường lối hoạt động khác chỉ
đưa đến sự lạt lẽo vô vị hay tăm
tối u minh.
4. Lương dân sẽ trở lại trong mức
độ thấy chung quanh họ có
nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô trương
cũng chẳng khiếp nhược cuộc sống môn
đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt đều
đặn khiêm tốn thường ngày. Đó
là “chứng tá của Kitô hữu, là hành động
truyền giáo duy nhất có hiệu quả trong một
thế giới tin vào việc làm nhiều hơn vào lời
nói.
|