Muối
Mahatma
Gandhi (1869-1948), vị thánh của những người
Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc
lập và tự do cho Ấn Độ bằng
đường lối ôn hòa bất bạo động,
đã nói: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được
một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ
tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay
lập tức”. Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào
thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành
phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một
người Công giáo. Một vị thánh giống như
Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm
cho người khác phải tin vào Thiên Chúa. Chính mẹ Têrêsa
đã sống và đã định nghĩa: “Kitô hữu là
người trao ban chính bản thân mình”.
Hôm nay trong bài Phúc âm, vai trò của
người Kitô hữu trên trần thế được
Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và Ánh
sáng. “Các con là muối đất cho đời. Nhưng
muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn
lại?... Các con là ánh sáng cho trần gian,
một thành xây trên núi không tài nào giấu được”.
Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu nói: “Các
con là muối cho đời”, Ngài đã sử dụng
một lối diễn tả đặc biệt bằng
cách ca ngợi sự vĩ đại
nhất dành cho một con người. Đó
là nhấn mạnh đến sự hữu ích và phẩm
giá của một người. Thời
xưa muối rất có giá trị. Người
Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một
câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người Lamã
đã nói: “Nil utilius sole et sale” – “Không có gì hữu ích hơn
là mặt trời và muối”. Trong thời Chúa Giêsu, muối
được nối kết với ba đức tính cao
quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì,
và khẩu vị.
Người Lamã
nghĩ rằng muối là vật thanh khiết vì nó
đến từ sự thanh khiết nhất đó là
mặt trời và biển cả. Do đó muối là của lễ
đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi
kết thúc một ngày, những lễ vật của
người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt
hẳn phải là một gương mẫu của sự
thanh khiết.
Thời cổ xưa, muối là
một phương tiện phổ thông nhất để
giữ cho đồ ăn khỏi
bị hư thối. Plutarch đã dùng một
lối diễn tả lạ lùng khi nói rằng thịt là
một xác chết. Xác chết đó
sẽ thối, nếu để nó y như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi.
Do đó muối giống như một linh hồn mới
được đưa vào trong một thân xác đã
chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị
mục rữa. Nếu người Kitô hữu là
muối, ắt hẳn phải có một ảnh
hưởng chống lại những điều
độc hại giống như vi trùng
trong cuộc sống.
Nhưng đặc tính vĩ đại và hiển nhiên nhất
của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon
miệng. Đồ ăn thiếu
muối sẽ trở nên nhạt nhẽo. Giống như
muối làm cho lương thực trở nên ngon,
người Kitô hữu cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.
Thế nhưng
điều trái ngược đã xảy ra trong lịch
sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo
đã làm mất hương vị của cuộc sống.
Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và
biến Kitô giáo thành tôn giáo của đế quốc Lamã,
đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại
muốn đưa các thần linh xưa kia
trở lại, và phàn nàn rằng: “Các bạn có nhìn kỹ
vào những người Kitô hữu này chưa? Con mắt
lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực
xẹp lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn,
chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu
rọi cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái
đất cống hiến đầy đủ cho họ,
nhưng họ chẳng ước muốn gì; tất
cả những điều mong muốn của họ là
từ bỏ mọi sự và chấp nhận đau
khổ cho đến chết”.
Thực ra không phải vì Kitô giáo
đã trở nên bi quan yếm thế, làm mất đi
sự sinh động của cuộc đời, nhưng
bởi hoàng đế Julian quá dính bén với cuộc
sống trần thế vật chất này và đã trở
nên sa đọa!
Theo các nhà chú giải
Thánh Kinh, người Do Thái dùng muối được
lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một là từ các
bờ biển sản xuất muối có chất
lượng cao cho việc nấu nướng đồ
ăn, gọi là muối biển. Người
đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào
nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu
đã vừa miệng thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài
lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và giảm
dần sự mặn mà.
Nguồn cung cấp
muối thứ hai đến từ Biển Chết –
biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ
Biển Chết có pha trộn nhiều
khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan
ra, nó không còn là cục muối nữa, mà chỉ là một
cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ
ném ra ngoài đường “cho người ta chà đạp
dưới chân”.
|