Đức Kitô Nazarét - Một Cớ Vấp Phạm
Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này. Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV đầu tuần này. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật vừa rồi. Tuy nhiên, cả hai bài Phúc Âm cho Chúa Nhật đầu tuần của Thánh ký Luca cũng như cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sửng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'" Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật đầu tuần? Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi. Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy. Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay. Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây: "Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20). Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra. Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân. Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ: "Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy". Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác.
Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL
|