Tiếng
gọi của Chúa
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Năm 1950, một hội nghị đại
diện 17 quốc gia đã bầu Albert Schweitzer làm
“người hùng của thế kỷ”. Hai
năm sau (1952). Albert Schweitzer
được giải thưởng Nobel hoà bình.
Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương
là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một
triết gia lừng danh, một nhà thần học nổi
tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công
sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai
nữa.
Nhưng điểm nổi bật
nhất nơi ông là niềm tin Kitô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành
“người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi,
Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu
nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30
tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời
còn lại cho những người thiếu thốn bằng
một hình thức phục vụ trực tiếp nào
đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của
ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp
thư ở Paris gởi một số thư về cho
bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ
biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học
để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi
Châu sống như một bác sĩ thừa sai để
phục vụ đám dân nghèo.
Những lá thư của
ông lập tức bị phản đối ngay. Bà con và bè
bạn ông đồng loạt phản đối dự
tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo
ông là một người đem chôn dấu tài năng đã
được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn
khăng khăng thực hiện những ý định
của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác
sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến
Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ
rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo.
Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi
năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức
lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc
những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh
tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân
ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965,
hưởng thọ 90 tuổi.
Thưa
anh chị em, động lực nào đã khiến ông Albert
Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của
cải trần gian để dấn thân làm việc cho
đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi
Châu như thế?
Theo lời ông, thì
một trong những động cơ thôi thúc ông làm
điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của
Chúa Giêsu. Ông đã lắng nghe tiếng gọi
của Ngài và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn
thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu. Ông nói: “Tôi không
thể hiểu được tại sao tôi lại
được phép sống một cuộc đời
hạnh phúc như thế đang khi chung
quanh tôi còn biết bao nhiêu người đang quằn
quại trong đau khổ”.
Ngày nay, Chúa Giêsu
vẫn tiếp tục lên tiếng kêu gọi và đòi
hỏi những ai đã nghe tiếng kêu gọi của Ngài
phải có một đáp trả dấn thân cụ thể:
Hãy sám hối! Hãy sống Tin Mừng Nước Trời!
Hãy loan báo Tin Mừng cho đồng bào, cho nhân loại! Có nhiều người đã nghe được
tiếng Chúa gọi. Một thứ
tiếng vang lên từ bên trong, nhẹ nhàng nhưng rõ nét,
mời gọi nhưng không kém phần thúc bách. Đáp lại tiếng Chúa là bước vào
một khúc quanh của đời mình, và tứ đó
đời mình đổi khác.
Chúa
Giêsu gọi tôi như xưa Ngài đã gọi các môn
đệ đầu tiên bên bờ hồ Galilê. Chúa vẫn hay
gọi con người một cách bất ngờ. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó.
Phêrô và Anrê, Giacôbê và Gioan, bốn vị này đã từng quen
biết ít nhiều với Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng
và thấy Ngài làm phép lạ, nhưng họ không ngờ là
một ngày nào đó, Ngài sẽ gọi họ làm Tông
đồ. Đức Giêsu đi dọc theo
bờ biển như một sự tình cờ. Ngài tình cờ thấy bốn anh em đang làm
việc, kẻ quăng chài, người vá lưới.
Tất cả ở trong một bầu khí êm
đềm và huynh đệ. Đức
Giêsu biết việc Ngài sắp làm. Ngài
gọi những người Cha muốn. Tiếng gọi của Ngài vang lên thật bất
ngờ. Tiếng gọi đưa
đến những chia cắt không thể nói là không đau
đớn. Các môn đệ đầu
tiên đã phải từ giã nghề chài lưới,
nghề đã nuôi sống gia đình họ và đã giúp
họ trưởng thành, nghề đã đem lại cho
họ biết bao kỷ niệm vui buồn. Chấp nhận bỏ nghề là chấp nhận
bấp bênh. Các ngư phủ nay
phải sống trên bờ, để đi theo một ông
thợ mộc cũng đã bỏ nghề! Hơn
nữa, họ còn phải từ giã gia đình và họ hàng
thân thuộc. Họ đã coi Chúa Giêsu
hơn cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp, tương
lai. Thái độ của các môn
đệ đầu tiên thật đáng phục.
Đó là thái độ lý tưởng của người
nghe Chúa gọi, và sẵn sàng theo Ngài ngay
lập tức.
Anh chị em thân
mến,
Chúa
Giêsu vẫn tiếp tục gọi mỗi người chúng
ta hôm nay. Không phải một người đã
chết từ 20 thế kỷ gọi chúng ta, nhưng là
một Đấng đang sống. Ngài
gọi đúng tên từng người trong chúng ta và Ngài
muốn giao cho chúng ta một công tác đặc biết.
Chúa Phục Sinh hôm nay vẫn cứ mời gọi từng
người chúng ta cộng tác với Ngài trong chương
trình vĩ đại, đó là
chương trình cứu độ toàn thế giới. Tôi có nghe tiếng Ngài không? Tôi có
muốn nghe được tiếng của Ngài không? Nhiều khi chúng ta giả vờ không nghe tiếng
Chúa để khỏi phải đáp lại, khỏi
phải từ bỏ và đoạn tuyệt. Có
nhiều tạo vật đang quấn lấy đời
ta, không dễ gì gỡ được: Tiền bạc,
sự ổn định, sự thoải mái tiện nghi,
chút tiếng tăm địa vị, chút thoả mãn nơi
thân xác… Từ bỏ là đặt mọi
sự dưới Chúa, coi Ngài như giá trị cao nhất
vượt trên mọi giá trị. Phải có tình yêu
lớn lao mới có thể từ bỏ
lập tức những gì chúng ta đang ôm ấp. Từ
bỏ trở thành thước đo tình yêu của ta
đối với Thiên Chúa. Đời
người Kitô hữu là một cuộc lắng nghe không
ngừng những tiếng gọi mời của Chúa. Chỉ những ai biết yêu mới nghe thấy
và dám thực hiện ý Chúa tỏ lộ qua từng ngày,
từng biến cố của đời mình.
Có thể
nói, một trong những hoạt động chính của
Chúa Phục Sinh là cất tiếng gọi con người. Ngài
không ngừng mời gọi với một sự kiên
nhẫn lạ lùng. Ngài gọi con người
dưới trăm ngàn hình thức. Không phải chỉ là
gọi ai đó đi tu, nhưng Ngài còn gọi cả giáo
dân theo Ngài, theo Ngài bằng cách ở lại gia đình và môi
trường xã hội để làm chứng cho Ngài, như
một Albert Schweitzer, một Kitô hữu, một triết
gia, một nhà thần học, một sử gia, một
nhạc công sôlô và là một bác sĩ thừa sai. Chúa Giêsu
vẫn cứ gọi và lay động trái tim
mọi người, kể cả những kẻ chưa
biết Ngài. Đời chúng ta là một
chuỗi những tiếng gọi của Chúa. Tiếng gọi nào cũng mới mẻ và cụ
thể. Nếu chúng ta đáp lại, Ngài
sẽ đưa chúng ta đi xa hơn trong tình bạn, qua
những tiếng gọi mới. Các môn đệ
đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, không
phải bằng lời nói, nhưng bằng hành vi từ bỏ thực sự. Chúa
không mời gọi mọi người từ bỏ gia
đình để sống đời thánh hiến, nhưng
Chúa lại mời gọi tất cả chúng ta bỏ tính
ích kỷ và cứng cỏi của mình để sống
yêu thương tha nhân. Bỏ cái gì ngoài
mình, không phải là điều quá khó. Nhưng
bỏ chính bản thân mình với những dự tính,
ước mơ, điều đó khó hơn nhiều.
Thưa anh chị em,
nghe tiếng Chúa, đáp lại bằng cách từ bỏ và
đi theo, đó là chu trình mà người
tín hữu phải sống nhiều lần trong ngày, trong
đời: “Hãy theo Thầy”. Chúa cứ nói với tôi câu
đó hoài trong suốt đời tôi, và tôi hiểu rằng theo Chúa là được triển nở trong
tự do yêu mến.
|