Lời
giới thiệu đầu tiên của Gioan về Đức
Giêsu --- Suy niệm của
JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1. Tại sao Gioan lại
giới thiệu Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”,
“Đấng xoá tội trần gian”? Ý nghĩa sâu xa của
những từ ngữ đó thế nào?
2. Vai trò của Gioan Tẩy
Giả đối với Đức Giêsu như thế nào?
Tư cách của ông có xứng với vai trò hay sứ
mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?
3. Qua tư cách và hành
động của Gioan, bạn có thể rút ra kết
luận gì cho cuộc đời ngôn sứ của bạn?
(nên nhớ mỗi Kitô hữu phải là
một ngôn sứ!)
Suy
niệm
1. Lời giới thiệu đầu
tiên của Gioan về Đức Giêsu
Đức Giêsu bắt đầu
cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức
sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa của
Gioan, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài
bằng nghi thức đền tội thay cho cả nhân
loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay,
ít ngày sau khi Gioan rửa tội cho Đức Giêsu, ông
liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài là ai, và
một phần nào báo trước cái chết của Ngài:
“Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội
trần gian!”. Muốn hiểu hết ý
nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết
tập tục sau đây của người Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong sách
Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào
sáng sớm và chiều tối, các tư tế trong
đền thờ phải sát tế mỗi buổi một
con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ toàn
thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng
mỗi buổi đều đổ hết lên đầu
con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết
để đền tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng
được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi của dân chúng đối với
Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh
mạng của chính con người, nhưng Thiên Chúa đã
chấp nhận để con chiên chết thay con
người. Đức Giêsu đã trở thành chiên hy
sinh như thế: “Đức Kitô đã chịu hiến
tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta” (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gioan còn
ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Đức Giêsu:
“Chính Người là Đấng tôi đã nói tới khi
bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng
trổi hơn tôi, vì có trước tôi”. Theo lời thiên
thần nói khi truyền tin cho Đức Ma-ri-a, ta biết
khi Đức Ma-ri-a thụ thai thì bà
Ê-li-sa-bét, đã có thai Gioan được 6 tháng (x. Lc 1,36b). Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gioan
đã ra đời trước Đức Giêsu nửa
năm. Nhưng Gioan lại giới
thiệu Đức Giêsu là Đấng “có trước” mình.
Như vậy từ ngữ “có trước” ở đây
không thể hiểu theo nghĩa thể
chất, mà phải theo nghĩa tâm linh, nghĩa là ông ám
chỉ nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu.
2. Gioan, người dọn
đường cho Đức Giêsu
Để chuẩn bị xa cho việc
Đức Giêsu đến với nhân loại, Thiên Chúa
đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy hàng
mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách
khác. Để
chuẩn bị gần, Ngài dùng một người tiền
hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới
thiệu. Người đó là Gioan
Tẩy Giả. Gioan là bà con với
Đức Giêsu, vì mẹ của ông Gioan là chị họ
của Đức Giêsu (x. Lc 1,35a). Vì
thế, chắc chắn ông Gioan và Đức Giêsu đã quen
biết nhau, nhưng Gioan không biết hoặc biết không
chắc chắn Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chỉ khi Đức Giêsu đến với ông xin
chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng
từ trời cao, ông mới biết điều đó cách
chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông
điều ấy: “Chính Đấng sai tôi đi làm phép
rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi
thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì
người đó chính là Đấng làm phép rửa trong
Thánh Thần"“. Khi đã biết đích xác
Đức Giêsu là ai, Gioan bắt đầu làm chứng
về Ngài.
3. Những ngôn sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho ta
thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời
đại, luôn luôn có sự giao tiếp với Thiên Chúa, và
được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất
thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is
6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi đó có những
trường hợp khó có thể chối từ như
trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x. Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được
Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của Ngài (x.
Am 3,7), được Ngài hướng
dẫn cụ thể những việc phải làm (rất
nhiều câu bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng
tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các
ngôn sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và
lời chứng của mình, và lời chứng của
họ mới có sức mạnh thuyết phục. Nếu
không, lời chứng của họ chỉ là những xác
quyết thiếu căn cứ, dựa trên những tin tưởng
rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên
xưng xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên
những tin tưởng chủ quan, không dựa trên
những nền tảng chắc chắn mà lại dám
lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì
thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến
những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm
trọng.
Tương tự như Đức
Giêsu và Gioan Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không
thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường
hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng quở trách, kết án,
chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức
sắc này (x. Is 56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs
4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt 23,13-32), mà cả vua chúa quan
quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12;
14,24-27, đặc biệt Mt 14,4). Điều
này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức
sắc trong tôn giáo thì ngoại trừ bề trên mình là
chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền
chỉ dạy hay sửa sai mình. Và đã
là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói
của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời
dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng
của mình giống như Gioan. Đó là
đặc điểm không thể thiếu của
những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa.
Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên
không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và
tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn
sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ
đi chăng nữa! Đó là dấu
chứng chắc chắn để phân biệt thật
giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc
trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ
thật là bị “ném đá” và bạc đãi, còn ngôn sứ
giả thì được ưu đãi, trọng vọng,
được hưởng nhiều đặc quyền
đặc lợi do những thế lực phản công lý
dành cho để thưởng công cho sự im lặng
rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
4. Ngôn sứ phải sống vì Thiên Chúa
và tha nhân, không vì mình
Trong cách giới thiệu của Gioan
về Đức Giêsu, ta thấy ông luôn luôn làm cho
Đức Giêsu nổi bật lên, đồng thời
tự làm cho mình lu mờ đi: “Người phải
nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi” (Ga 3,30). Chẳng hạn: “Có người
đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có
trước tôi”, “Tôi đây không phải là Đấng Kitô,
mà là kẻ được sai đi trước mặt
Người” (Ga 3,28), “Người sẽ đến sau tôi
và tôi không đáng cởi quai dép cho Người” (Ga 1,27).
“Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi”
(Mt 3,11), “Tôi làm phép rửa cho anh em trong
nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành
nhiệm vụ, Gioan rút lui vào bóng tối, để
Đức Giêsu đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Đây cũng là một dấu chứng
của ngôn sứ thật.
Người ngôn sứ thật phải từ bỏ
được chính “cái tôi” của mình, và thể hiện
được tinh thần quên mình, tự hủy như
Đức Giêsu (Pl 2,6-8). “Không làm chi vì ganh tị hay vì hư
danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người
khác hơn mình; không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi
ích cho người khác” (Pl 2,3-4). Một người coi cái tôi của mình quá lớn
chắc chắn không phải là ngôn sứ thật.
Họ không thể sống vì Chúa, vì tha nhân được,
mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ
như vậy: “có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người”.
Rất nhiều người làm ngôn
sứ, làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm
nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách
rộng rãi… nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình
thương đối với tha nhân thúc đẩy, mà do
tính ham được tiếng khen, lời ca tụng,
muốn nổi danh là đạo đức, là có lòng
thương người, v.v… Họ đã dùng danh nghĩa
Thiên Chúa để tạo nên danh thơm
tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc
cao sang trong Giáo Hội và xã hội. Tâm lý này đã
được Đức Giêsu vạch mặt: “Khi làm
việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng,
chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố
thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn
đạo đức giả thường biểu diễn
trong hội đường và ngoài phố xá, cốt
để người ta khen” (Mt 6,1), Và thánh Phao-lô cho
biết sự vô giá trị của những hành động
như vậy: “Giả như tôi có đem hết gia tài
cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi
để chịu thiêu đốt, mà không có đức
mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Tính
chất khoa trương, thích “phình to bản ngã” này,
Đức Giêsu gọi là “men Pha-ri-siêu”: “Anh em phải coi
chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức
giả” (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Kitô hữu, là ngôn sứ, chúng ta
cần phải tránh loại “men” rất khó tránh này.
Cầu
nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã
đến để thiết lập Giáo Hội, tức
một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần gian. Giáo
Hội không chỉ có sứ mạng “tư tế” (thờ
phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng “vương
đế” (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại
cảnh, lịch sử), và sứ mạng “ngôn sứ” (làm
chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương)
nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn
sứ mạng “ngôn sứ” ấy trước mặt các dân
tộc chưa? Xin cho chính bản thân con, cũng
như mọi Kitô hữu khác ý thức được
sứ mạng “ngôn sứ” tức “làm chứng” của mình
trong môi trường mình sống, trong xã hội và Giáo
Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị
coi thường, bị chà đạp. Xin cho con đức
can đảm phải có của một ngôn sứ như
Gioan Tẩy Giả, để con thực hiện tốt
sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen.
|